“ 2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ.
3. Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để:
a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác,
b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội."
(Điều 19. Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, LHQ biểu quyết năm 1966, VN ký và tham gia ngày 24/9/1982).
Biết được sự thiệt tuy khó, nhưng còn khả dĩ; nói rõ được sự thiệt hầu như bất khả !"... ĐÃ XA RỒI CÁI THỜI MÀ AI NÓI RA ĐIỀU GÌ CŨNG SỢ BỊ PHÊ PHÁN MẤT LẬP TRƯỜNG, CẢ XÃ HỘI BỊ ÉP SỐNG TRONG CÁI VỎ ĐẠO ĐỨC GIẢ, TỪ TRÊN XUỐNG DƯỚI, NÓI THÌ RẤT HAY, NHƯNG LÀM THÌ NGƯỢC LẠI..." (GS Hoàng Tụy)
Suy gẫm hôm nay: "VẪN BIẾT SỐNG LÀ HƯỚNG ĐẾN TƯƠNG LAI, NHƯNG QUÁ KHỨ LÀ TẤM GƯƠNG NÊN SOI LẠI!"
Hiển thị các bài đăng có nhãn Về: Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Về: Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 26 tháng 3, 2018

LỊCH SỬ VÀ NHƠN VẬT LỊCH SỬ.

Như đã hứa, ở đây:
https://www.facebook.com/thudung.to…/posts/1614678518647288…
Tui xin gõ tiếp:

1./ Sử sách chưa phải là lịch sử. Ngoài sách sử còn có dã sử, truyện sử, ngay cả việc dạy lịch sử trong nhà trường cũng phải theo sách giáo khoa lịch sử, được soạn theo quan điểm của đương triều, tức nhiên "chánh triều/quyền" đương đại không bao giờ cho học trò biết được đúng những điều như sự thiệt của lịch sử, không cần kể ra, mọi người đều biết quá rõ!. Tương tợ, gia phả của các dòng họ hay gia đình cũng rứa mà thôi. Cho nên, có sử sách nào là "chánh thống" và "phi chánh thống".
Ngay cả cuốn "Hoàng Lê Nhất thống chí", theo GS Dương Quảng Hàm, cũng chỉ là quyển "lịch sử tiểu thuyết".
Nói như vậy không có nghĩa là ta sổ toẹt hết tất cả, mà ta phải biết tham khảo, tư duy và chọn lọc để thấy chi tiết nào trong "rừng sử sách" ấy là hợp lý và tiệm cận với sự thiệt nhứt. Tỉ như, lịch sử Việt Nam đương đại, có "cậu bé đuốc sống Lê Văn Tám hay không?! vậy.
Phần nầy xin mời coi thêm "Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802" của Tạ Chí Đại Trường, phần Mở đầu và Chương 1.

2./ Đặc biệt, "ngụy triều" Nguyễn Tây Sơn, sau khi bị triều Nguyễn Gia Miêu tiêu diệt, sách vở, của cải, tiền tài, vật dụng của "ngụy" đều bị "chánh triều" tịch thu: "Ngày Mậu Dần, thâu phục Kinh Đô. Giặc nghe đại binh đến, bỏ chạy cả, lấy được hết thảy thuyền và khí giới; đại binh kéo thẳng vào Phú Xuân, Quang Toản đem đồ quý báu bỏ thành chạy ra Bắc; Ngài ngự vào thành coi khắp các cung khuyết, lấy được 13 cái ngụy ấn, 33 bản ngụy sách; niêm phong kho tàng, tịch biên tiền của, cấm quân không được nhiễu hại, để cho yên dân." (Quốc Triều Chánh biên của Quốc sử quán triều Nguyễn).
Lại nữa, triều Nguyễn Gia Miêu cai trị từ 1982 đến 1945, rồi từ 1945 đến nay, là chánh quyền đương đại,mà những cuốn sách sử như "Lịch Sử Nội Chiến Ở Việt Nam Từ 1771 Đến 1802" (của Tạ Chí Đại Trường cũng bị cấm đọc đến những 20 năm từ sau 30/4/1975) thì đâu là những sử liệu "chánh thống" và khả tín!

3./ Một điều nữa là họ tên của các nhơn vật lịch sử ngoài việc không thống nhứt do cách đọc âm Việt từ chữ Hớn đã khác nhau thì còn việc biên chép cũng có khác nhau. Tỉ như ông Ngô Thì/Thời Nhậm/Nhiệm thì sử nhà Nguyễn Gia Miêu ghi là:
"Tháng 2, giải ngụy Thượng Thơ Ngô Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Phan đem về Bắc thành. Quan Bắc thành tâu rằng: "Ngụy quan ra thú thời tha, đã có minh chiếu rồi, xin tha cho bọn Ngô Nhậm khỏi giết, nhưng phải đánh đòn để cho biết xấu". Truyền chỉ đem bọn ấy đến trường học phủ Phụng Thiên, kể tội mà đánh; Nhậm bị đánh chết". (Quốc triều Chánh biên của quốc sử quán triều Nguyễn).

4./ Đối với trường hợp của nhơn vật Võ(Vũ) văn Dũng(Dõng), chữ Hớn đều viết như nhau: 武 文 勇.
Cũng có thể "Ngụy triều Tây Sơn" có 2 ông Dũng/Dõng, đều là 2 nhơn vật kiệt xuất.

a./ Ông Dũng/Dõng ở Hải Dương, chỉ có thành tích đi sứ sang Tàu, ngoài ra chưa thấy công trạng gì đặc sắc và cũng chỉ phục vụ cho "ngụy triều" sau nầy, chưa phải là bậc khai quốc công thần. Ông nầy không bị "chánh triều" bắt hay giết hoặc "chiêu hồi chánh triều". Sử của "chánh triều" (chắc ăn nhứt) không ghi, vì đối với nhơn vật tầm cỡ như ông Dũng/Dõng ở Tây Sơn - Bình Định thì họ đã biên chép ra rồi.
Phân tách thêm e sẽ đụng chạm đến gia phả, hậu duệ của ông và những người ủng hộ nhơn vật nầy!

a./ Ông Dũng/Dõng ở Tây Sơn - Bình Định, thì "Quốc triều chánh biên" biên chép khá nhiều:
- "Ngài nghe Tư Khấu giặc là Võ Văn Dõng giết cha con Thái sư Bùi Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở, Ngài dạy các tướng rằng: "giặc chém giết nhau, có thể thừa cơ được"."
- "Tháng 5, quân ta đến gần thành Quy Nhơn; Trần Quang Diệu, Võ Văn Dõng đi đến tỉnh Quảng Nghĩa, nghe quân ta giữ tại xứ Tân Quan, đều bỏ thuyền lên bộ, kéo đi hơn 20.000 quân, Diệu ở ngoài đèo Bến Đá giả làm thanh thế, Dõng đem quân đi xuống Chung Xá mưu lên đánh quân ta;..."
- "Nguyễn Quang Toản đem lính Thuận Hoá vào cứu. đóng tại sông Trà Khúc, thường dục các tướng tới xâm. Trần Viết Kiết nói rằng: "bây giờ trái gió, đánh thủy không đươc"; bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dõng xin Quang Toản về Thuận Hóa, Quang Toản trở về, Diệu, Dõng cũng về Quảng Nam, giao Nguyễn Văn Giáp giữ Trà Khúc ..."
- "Năm Tân Dậu thứ XXII, tháng giêng, quân thủy ta đánh giặc ở cửa Thi Nại. Nguyên trước khi Võ Văn Dõng đem hai chiếc thuyền hiệu Định Quốc và hơn 100 chiếc thuyền chiến, đậu ngang cửa biển; lại lập hai đồn bên cửa biển: bên tả tại Nhạn Châu, bên hữu tại núi Tam Tòa; hai đồn ấy đều đặt súng lớn để chống cự quân ta. Đến bây giờ các đạo quân ta đều sắm đồ hỏa công đủ hết; canh ba đêm 16, Ngài sai Nguyễn Văn Trương chèo thuyền nhỏ lén vào nơi Hổ Cơ đốt đồn thủy giặc; Võ Di Nguy đem mấy chiếc thuyền lớn xông tới, Văn Duyệt theo sau; Nguy bị đạn chết, Duyệt không ngó đến, càng gắng sức đánh, từ giờ Dần đến giờ Thân đốt phá hết thuyền giặc; ai cũng khen trận ấy là "Võ công đệ nhất"."
- "Người xã Ngọ Xá (thuộc huyện Nông Cống) là Phạm Ngọc Phát, Phạm Ngọc Thụy bắt Võ Văn Dõng và ba người bộ hạ, giải đến Hành tại, Ngài truyền đóng xiềng nghiêm giam."

Như vậy, nhơn vật Dũng/Dõng ở Tây Sơn - Bình Định là có thiệt 100%, là 1 danh tướng thuộc hàng khai quốc công thần của "ngụy triều". Ông đã bị "chánh triều" bắt nhốt, không thấy nói đưa đi cải tạo hay giết chết, nếu có thì họ đã kể ra rồi, tỉ như ông Nhậm/Nhiệm bị làm nhục và đánh cho chết họ cũng đã kể vậy.
Như vậy, kết hợp với thiệt tế ông từ trần khi về già, có mồ mả ở quê hương, thì việc ông trốn thoát, không bị hành hành hình, cũng là chắc cú 100% vậy.

Còn việc ông nầy có là "tướng cướp" mà chắc chắn là cướp ở đây là "những tên trộm cướp nhân đức" như dân chúng đặt cho (Coi "Lịch sử nội chiến ..." của Tạ Chí Đại Trường).Tất nhiên chỉ "cướp" và "giặc" khi Nguyễn Tây Sơn chưa tụ nghĩa và sau khi Nguyễn Gia Miêu thắng cuộc.

p/s: Tui có sẵn bản "Quốc Triều Chánh biên ..." và "Lịch sử nội chiến ..." vị nào chưa có hoặc cần tham khảo thêm ở đây:

Thứ Ba, 4 tháng 8, 2015

NGƯỜI CHÀM TRONG MẮT TÔI

Vài lời "phi lộ":

     - Ngày 25/7/2015, trên "QuangTrung BinhKhe" có bài  "BÌNH CHIÊM KÝ" kể chuyện về Hoàng đế Lê thánh Tông "ngự giá bình Chiêm", một "ông vua hăm tám tuổi đeo gươm đi giữ nước";
     - Ngày 04/8/2015, trên Facebook của KTS Đinh Văn Quế qua bài thơ "THÀNH XƯA" có nhắc đến vài hoài niệm về "Thành Đồ Bàn xưa là kinh đô của Chàm";

           Khiến tui nhớ lại trên Blog của anh Nguyễn Ngọc Chính, ngày 12/8/2014, có bài "NGƯỜI CHÀM TRONG MẮT TÔI", nhắc đến những hoài niệm về người Chàm trong anh. Được sự đồng ý của anh, tui xin giới thiệu cùng mọi người:

Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ
Quay về xem non nước giống dân Chàm

(Chế Lan Viên)

           Ngoài tên gọi “Chàm” ta còn dùng các danh xưng như “Chăm”, “Hời”, “Chiêm Thành”… để chỉ một dân tộc đã từng có một quốc gia độc lập, hùng mạnh trong lịch sử, có nền văn hóa phát triển và là hậu duệ của các cư dân nền văn hóa Sa Huỳnh thời kì đồ sắt.

           Ngoài Việt Nam, người Chàm ngày nay còn tản mát đi các nước như Campuchia, Mã Lai, Thái Lan và Hoa Kỳ. Dân số tại Việt Nam theo điều tra năm 1999 là 132.873 người và theo tài liệu của Ủy ban Dân tộc năm 2008 là khoảng hơn 145.000 người, xếp thứ 14 về số lượng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

           Vấn đề đặt ra là giữa “Chàm” và “Chăm” thuật ngữ nào đúng? Thật ra thì từ năm 1979 người miền Nam mới thấy xuất hiện chữ “Chăm” từ chính quyền mới sau 30/4/1975. Trước đó, từ miền Trung trở vào Nam, chữ “Chàm” đã từng xuất hiện trong các địa danh, tên gọi cũng như danh từ riêng như Tháp Chàm, Cù Lao Chàm, giếng Chàm, vàng Chàm…

           Để chỉ người Chàm, người Việt tại miền Nam còn dùng những tên gọi như “Hời”, “Chiêm”, “Người đàng thổ” (khác với Người đàng quê là người Việt)… Theo một giải thích thì những chữ đó được dùng một cách “miệt thị” nhưng tôi thiết nghĩ đó là một nhận xét sai lệch, suy diễn bất hợp lý.

           Trước năm 1975 đã có những công trình học thuật như Từ điển Chàm – Việt – Pháp (của Cham Dohamide và Dorohiêm), Nguyễn Khắc Ngữ nghiên cứu về dân tộc học qua tác phẩm “Mẫu hệ Chàm” hoặc học giả Thiên Sanh Cảnh có một loạt bài về “Đám ma Chàm”… Rõ ràng là chữ Chàm ở đây không thể nào được dùng một cách “miệt thị” trong nghiên cứu.

           Lại nữa, một số tác giả người gốc Chàm đã dùng chữ Chàm hay Chiêm trong bút hiệu của mình như Khaly Chàm, Chiêm Nhân… Không lý nào các tác giả đó lại tự miệt thị mình! Nhưng một khi nhận xét về sự “miệt thị” này xuất phát từ những người “có quyền” thì nó trở thành một quyết định và ngành văn hóa chỉ biết gọi là Chăm thay vì Chàm như lúc trước.

           Trong bài viết “Tiếng Chăm của bạn” trên Tuyển tập Tagalau [1], Inrasara cho rằng: “Dù sao, quy định của Nhà nước vẫn phải được tuân thủ. Tuân thủ, nhưng nếu có ai dùng từ “Chàm” trong bài viết, nhất là khi có người viết đúng các tên gọi cũ như Trung tâm Văn hóa Chàm, Ma Lâm Chàm chẳng hạn, ta phải chấp nhận và không biên tập. Bởi sự thể không có gì sai hay miệt thị người Chàm cả”.

Tagalau 12: Tuyển tập Sáng tác – Sưu tầm
 – Nghiên cứu văn hóa Chàm

           Khi còn nhỏ, người Chàm trong mắt tôi là những ông “Hời” ngồi bán thuốc dạo bên cạnh những chiếc giỏ đặc biệt… kiểu Chàm. Họ là những người có vẻ “thần bí” với những câu tiếng Việt lơ lớ, một cách rao hàng vừa tức cười nhưng cũng không kém phần… đe dọa: “Này, ngồi xuống đây tôi coi bệnh cho, mặt của anh có bệnh rồi…”. Tôi sợ lắm nên không trả lời, vội bước đi mà không dám ngoảnh đầu trở lại.

           Lớn lên khi tìm hiểu thêm, người Chàm ở Ninh Thuận lại cùng quê hương với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu! Thêm một phát hiện khiến nhiều người phải ngạc nhiên, trong đó có tôi, về mối tương quan giữ chiếc áo dài của người Chàm và người Việt.

           Các nhà nghiên cứu cho thấy chiếc áo dài Việt Nam là sự tổng hợp từ chiếc áo dài của người Chàm và chiếc “xường xám” của Thượng Hải. Theo Bùi Minh Đức trong Từ điển tiếng Huế, NXB Văn Học, 2009:

           “Chiếc áo dài của đàn bà Việt Nam khởi phát từ thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (cuối thế kỷ XVIII) với nền tảng là chiếc áo dài phụ nữ Chàm, kết hợp với chiếc áo tứ thân ở Bắc… Áo dài hai vạt của đàn bà Huế có được là do ảnh hưởng Chàm…”

           Lê Quý Đôn viết: “Chúa Nguyễn Phúc Khoát hùng cứ ở xứ Đàng Trong, sau khi chiếm trọn nước Chiêm Thành, mở mang bờ cõi về phương Nam… Để chứng tỏ tinh thần độc lập, Chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát đã chú trọng đến vấn đề cải cách xã hội, phong tục mà điều quan trọng là cải cách về y phục…”

           Lần tìm trong “Đại Nam thực lục tiền biên” ta bắt gặp đoạn văn sau đây: “Chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, ông đã triệu tập quần thần tìm phương thức xưng vương và dựng một tân đô. Ông đã thay đổi lễ nhạc, văn hóa và trang phục.

           Để thay đổi, phụ nữ miền Bắc mặc váy, phụ nữ miền Nam phải mặc quần có đáy (hai ống) giống đàn ông. Võ Vương đã gây ra một cuộc khủng hoảng về trang phục. Phụ nữ đã phản đối kịch liệt.
          
           Về sau Võ Vương không ưng ý với trang phục đó, Ngài giao cho triều thần nghiên cứu, tham khảo chiếc áo dài của người Chàm (giống hệt áo dài hiện nay nhưng không xẻ nách), và áo dài của phụ nữ Thượng Hải (xẻ đến đầu gối) để chế ra áo dài của phụ nữ miền Nam”.

            Do đó, những chiếc áo dài đầu tiên của người Việt giống như áo dài người Chàm và có xẻ tà. Vậy là chiếc áo dài Việt Nam ngày nay có đủ hai yếu tố văn hóa phương Bắc và phương Nam.
Chiếc áo dài của người Chàm

           Nói đến người Chàm là phải nói đến Chế Lan Viên [2], một hiện tượng thơ văn Việt Nam nhưng lại đậm nét Chàm với tập thơ Điêu tàn được xuất bản năm 1937. Bút hiệu Chế Lan Viên khiến người đọc thơ của ông liên tưởng đến Chế Bồng Nga, tên hiệu của vị vua thứ 3 thuộc vương triều thứ 12 (tức là vị vua đời thứ 39) của Chiêm Thành.

           Trong thời kỳ Chế Bồng Nga cầm quyền, đất nước Chiêm Thành rất hùng mạnh, từng đem quân nhiều lần xâm phạm Đại Việt của nhà Trần. Ông hy sinh năm 1390 khi tấn công Thăng Long lần thứ 4.

           Điểm đặc biệt ở chỗ Chế Lan Viên lại là một nhà thơ mang dòng họ Việt, Phan Ngọc Hoan, nhưng đã mượn hình ảnh của người Chàm để thể hiện một trường phái thơ mà ông gọi là Trường Thơ Loạn trong tập thơ Điêu tàn. Đặc biệt hơn nữa, khi xuất bản Điêu tàn, Chế Lan Viên chỉ mới 17 tuổi!

               “Ta hãy nghe, trong lòng bao đỉnh Tháp
               Tiếng thở than, lời oán trách cơ trời
               Ta hãy nghe, trong gạch Chàm rơi lác đác
               Tiếng máu Chàm ri rỉ chảy không thôi”
               (Chế Lan Viên – “Bóng tối” trong tập thơ Điêu tàn)

               “Bên cửa Tháp ngóng trông người Chiêm Nữ
               Ta vẩn vơ nhìn không khí bâng khuâng”

               (Chế Lan Viên, “Đợi người Chiêm nữ” trong tập thơ Điêu tàn)

               “Chiêm nương ơi, cười lên đi, em hỡi!
               Cho lòng anh quên một phút buồn lo!
               Nhìn chi em chân trời xa vòi vọi
               Nhớ chi em sầu hận nước Chàm ta?”

               (Chế Lan Viên, “Đêm tàn” trong tập thơ Điêu tàn)

               “Nước non Chàm chẳng bao giờ tiêu diệt
               Tháng ngày qua vẫn sống với đêm mờ”

               (Chế Lan Viên – “Bóng tối” trong tập thơ Điêu tàn)

               “Tháng ngày qua, gạch Chàm đua nhau rụng
               Tháp Chàm đua nhau đổ dưới trăng mờ!
              
               Tạo hóa hỡi! Hãy trả tôi về Chiêm quốc!
               Hãy đem tôi xa lánh cõi trần gian!”
               (Chế Lan Viên, “Những sợi tơ lòng” trong tập thơ Điêu tàn)

Chế Lan Viên (1920 – 1989)

           Thành Đồ Bàn là tên kinh đô của Chàm trong thời kỳ có quốc hiệu là Chiêm Thành. Thành Đồ Bàn, hay Vijaya, còn gọi là Thành cổ Chà Bàn hoặc thành Hoàng Đế, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, Thị xã An Nhơn và cách thành phố Qui Nhơn (tỉnh Bình Định) khoảng hơn 20km.

           Trong lãnh vực âm nhạc, nhạc sĩ Xuân Tiên đã để lại cho hậu thế một tác phẩm bất hủ mang tên Hận Đồ Bàn với những lời thống thiết của người dân Chàm:

               “Rừng hoang vu, vùi lấp chôn bao uất căm hận thù
               Ngàn gió ru, muôn tiếng vang trong tối tăm mịt mù
               Vạc kêu sương, buồn nhắc đây bao lúc xưa quật cường
               Đèn đóm vương, như bóng ai trong lúc đêm trường về…

           Trong kho tàng âm nhạc Việt Nam trước năm 1975 có rất ít những bản nhạc mang tính cách lịch sử của một dân tộc “vong quốc” với những ca từ diễn tả tỉ mỷ đến từng chi tiết như một bài thơ:

               “Rừng rậm cô tình, đèo cao thác sâu, đồi hoang suối reo hoang vắng cheo leo
               Ngàn muôn tiếng âm, tháng năm buồn ngân, âm thầm hòa bài hận vong quốc ca
               Người xưa đâu, mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu
               Lầu tháp đâu, nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu…”

               “Về kinh đô, ngàn thớt voi uy hiếp quân giặc thù
               Triệu sóng xô, muôn lớp quân Chiêm tiến như tràn bờ
               Tiệc liên hoan, nhạc tấu vang trên xứ thiêng Đồ Bàn
               Dạ yến ban, cung nữ dâng lên khúc ca về Chàm

               “Một thời oanh liệt người dân nước Chiêm lừng ghi chiến công vang khắp non sông
               Mộng kia dẫu tan cuốn theo thời gian nhưng hồn ngàn đời còn theo nước non
               Người xưa đâu, mộ đắp cao nay đã sâu thành hào
               Lầu các đâu, nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu…”


Kiến trúc và điêu khắc ở thân tháp Po Klaung Garai, thế kỷ 13

           Không một ca sĩ nào hát Hận Đồ Bàn "có hồn" bằng Chế Linh [3]. Lý do cũng dễ hiểu vì anh mang tâm sự của một người Chàm với tên thật là Chà Len (Jamlen) và tên Việt là Lưu Văn Liên. Anh ra đời năm 1942 tại làng Hamu Tanran thuộc Phan Rang, nay là tỉnh Ninh Thuận.

           Người ta biết nhiều đến Chế Linh qua dòng nhạc ca tụng những người lính trong quân lực VNCH mặc dù anh chẳng đi lính ngày nào vì thuộc dạng “miễn dịch” dành cho “dân tộc thiểu số”. Về dòng nhạc này, có người khó tính lại bảo Chế Linh thuộc thành phần… “lính chê”.

           Người thương thì nói rõ ràng là anh bị “lính chê” nên mới được “miễn dịch”, một số khác, trong đó có cả những người đang mặc áo lính, lại không ưa những ca từ anh ca tụng họ. Họ bảo những bài hát đó được trình bày theo phong cách… “sến”.

           Nhưng với Hận Đồ Bàn, mọi người đều có một nhận xét chung: bài hát đã đưa tên tuổi Chế Linh thâm nhập vào làng ca nhạc Việt Nam với tâm trạng của một người Chàm “vong quốc”. Chỉ tiếc một điều, những bài hát có tầm vóc như Hận Đồ Bàn rất hiếm trong nền ca nhạc nên Chế Linh phải bước sang một dòng nhạc gây nhiều tranh cãi [4].

           Người ca sĩ gốc Chàm, được gọi là “tài hoa” cũng có một đời tư thật… “hào hoa”: Chế Linh nổi tiếng là người có nhiều vợ con, tính cho đến năm 2007, anh đã có 4 vợ và 14 đứa con. Ta khám phá được nhiều điều về Chế Linh qua bài viết của Jaya Bahasa, “Mừng sinh nhật lần thứ 57 của chị Nguyễn Thị Thúy Hằng” trên trang web Inrasara [5].

           Vào giữa thập niên 1970 Chế Linh kết hôn với cô Nguyễn Thị Thúy Hằng (sinh ngày 1/12/1953, mất ngày 26/4/1974). Cuộc hôn nhân giữa một ca sĩ người gốc Chàm với một cô gái người Việt đã khiến giới báo chí Sài Gòn tốn khá nhiều giấy mực.

           Jaya Bahasa viết: “Như một định mệnh hai dân tộc, hạnh phúc này nhanh chóng đổ vỡ bởi những mù khơi mà không ai có thể biết được. Vì muốn minh chứng cho tình yêu của mình được sống mãi, chị Thuý Hằng quyết định quyên sinh bằng một liều thuốc ngủ mà luyến tiếc để lại hai đứa con trai thơ dại.
          
           Cái chết của Thuý Hằng đến quá đột ngột và bất ngờ, một lần nữa, cánh báo chí và giới nghệ sĩ Sài Gòn thêm bàn tán rôm rả. Nhưng không người nào biết được căn nguyên. Bởi chị không một lời nào trăn trối ngoài ba lá thư để lại cho gia đình.

            Lá thư thứ nhất viết cho người mẹ mà chị gọi bằng Mợ, xin tha thứ vì những lỗi lầm này và mong mợ hãy yêu thương đứa con của chị để được thấy chị qua hình ảnh đứa con. Lá thư thứ hai viết riêng cho hai đứa con yêu quý mà chị đặt tên là Sơn và Ca, một loài chim có giọng hót tuyệt vời. Lá thư thứ ba viết riêng cho ca sĩ Chế Linh, vài dòng ngắn ngủi với sự muộn màng và chỉ xin Chế Linh cho một nắm đất đắp lên mộ”.


Thúy Hằng và Chế Linh
(Ảnh trên trang web Inrasara) 

            Chuyện tình Chế Linh – Thúy Hằng với đoạn kết đầy nước mắt khiến người ta liên tưởng đến một chuyện tình vương giả trong lịch sử Việt-Chàm. Huyền Trân là một công chúa đời nhà Trần, con gái của vua Trần Nhân Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô và Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía bắc Quảng Trị ngày nay).

           Một năm sau đó, khi hoàng hậu người Đại Việt vừa sinh xong hoàng tử Chế Đa Đa, thì tháng 5/1307, quốc vương Chế Mân băng hà. Theo tục lệ nước Chiêm, khi vua chết hoàng hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn tang. Vua Trần Anh Tông biết tin, sai Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang, tìm cách cứu Huyền Trân.

           Trần Khắc Chung bày kế thành công, cứu được Huyền Trân đưa xuống thuyền về Đại Việt bằng đường biển. Cuộc hải hành này kéo dài tới một năm (?) và theo “Đại Việt Sử ký Toàn thư” thì Trần Khắc Chung đã tư thông với công chúa.

           Theo di mệnh của Thượng hoàng Nhân Tông, công chúa đầu gia Phật giáo ở núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh) vào năm 1309, dưới sự ấn chứng của quốc sư Bảo Phát. Công chúa thọ Bồ tát giới và được ban pháp danh Hương Tràng.

            Trong dân gian, có lẽ vì thời đó người Việt coi người Chàm là dân tộc thấp kém, nên đã có câu:

           Tiếc thay cây quế giữa rừng
            Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo


Đền thờ Huyền Trân Công chúa          

            Nói đến lãnh vực âm nhạc của người Chàm như trường hợp của ca sĩ Chế Linh tôi lại nhớ đến nhạc sĩ Từ Công Phụng, vốn là bạn học năm Đệ Nhất tại trường Trần Hưng Đạo Đà Lạt. Chúng tôi chỉ quen nhau trong một niên học nhưng có nhiều chuyện để nhớ khi tuổi tác ngày một cao.

           Từ Công Phụng ngày đó là một học sinh từ Ninh Thuận lên Đà Lạt học năm cuối trung học. Có lẽ anh là gốc người Chàm nên hình như luôn có một khoảng cách vô hình với đám học sinh chúng tôi. Anh “góp tiếng” tham gia ban nhạc nhà trường bằng giọng hát và chúng tôi rất ngạc nhiên khi nghe một giọng trầm, buồn và còn đặc biệt hơn nữa chỉ hát những bài “lạ”…

            Đó là hai bài “Bây giờ tháng mấy” và “Mùa thu mây ngàn” do chính anh sáng tác. Thật không ngờ, khi mới 16 tuổi anh đã tự học về âm nhạc qua một cuốn sách của Robert de Kers, viết bằng tiếng Pháp, với tựa đề “Harmonie et Orchestration”. Đến năm 17 tuổi anh đã có nhạc phẩm đầu tay “Bây giờ tháng mấy”…

            Hồi đó đang có cuộc thi tài giữa “trường Ta” là Trần Hưng Đạo và “trường Tây” của các sư huynh dòng La San là trường College d’Adran trên sân khấu thành phố Đà Lạt. Vì là trường Tây nên Adran chơi nhạc Beatles, đàn cũng là kiểu Beatles còn Trần Hưng Đạo chúng tôi khiêm tốn hơn, chơi đàn Fender theo các bản hòa tấu của The Shadows.

            Có thêm Từ Công Phụng “chuyên trị” nhạc Việt thể loại “tình cảm” trở thành… “hoa thơm cỏ lạ” trong chương trình văn nghệ. Thoạt đầu Từ Công Phụng “khớp” không dám lên sân khấu nhưng anh em trong ban nhạc cứ khen những bài “tự biên, tự diễn” của Phụng và bảo đảm là sẽ nổi bật trong đêm văn nghệ.

           Từ Công Phụng bỗng trở thành một hiện tượng tại Đà Lạt. Khán giả hoan nghênh nhiệt liệt đến độ Đài phát thanh Đà Lạt mời anh ghi âm để phổ biến qua làn sóng điện, tên tuổi của Từ Công Phụng được người Đà Lạt biết đến cùng với Lê Uyên Phương trong ban nhạc Ngàn Thông trên Đài phát thanh.

            Cuối năm Đệ Nhất ban nhạc của chúng tôi tản mát mỗi người một phương. Họ Từ về Sài Gòn và ngay sau đó nổi lên như một nhạc sĩ ăn khách cùng thời với Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Trịnh Công Sơn và Lê Uyên Phương.
           Sau 30/4/1975, các sáng tác của Từ Công Phụng bị cấm lưu hành tại Việt Nam và mãi cho đến năm 2003 mới được… “cởi trói”. Anh rời Việt Nam năm 1980 và định cư tại Portland, Oregon. Năm 1998, anh trở về thăm quê hương Ninh Thuận và năm 2008, anh trở lại với chương trình "45 năm tình ca Từ Công Phụng" tại một phòng trà có tiếng ở Sài Gòn.

            Nhạc sĩ kiêm ca sĩ Từ Công Phụng đã 2 lần vượt qua căn bệnh ung thư gan và ung thư túi mật nhưng vẫn mong đủ sức khỏe để sáng tác trong những ngày cuối đời. Với tình bạn học của buổi thiếu thời tôi chỉ mong anh sẽ sống mãi với chúng ta, chuyện sáng tác chỉ là vấn đề phụ vì những tác phẩm đã ra đời của anh đã là chứng nhân cho một nhạc sĩ tài hoa người Chàm.


Từ Công Phụng

           Hồi còn đi học tại Ban Mê Thuột, tôi có một vị giáo sư người gốc Chàm. Thầy Nguyễn Văn Tỷ, quê quán tại Ninh Chữ, một bãi biển thuộc thôn Bình Sơn, thị trấn Khánh Hải, tỉnh Ninh Thuận.

           Tôi cùng thầy Bùi Dương Chi đã dẫn đoàn sinh viên Mỹ đến bãi biển Ninh Chữ được coi là một trong những bãi biển đẹp nhất Việt Nam. Kết hợp với địa danh Bình Sơn, Ninh Chữ đã trở thành cụm du lịch Bình Sơn - Ninh Chữ đem lại diện mạo, thương hiệu và thu nhập cho tỉnh Ninh Thuận.

           Thầy Nguyễn Văn Tỷ đã về hưu và sinh sống tại Ninh Chữ. Ông trở thành một “nhân sĩ” trong làng và vẫn tiếp tục nghiên cứu văn hóa Chàm để truyền bá lại cho lớp trẻ người Chàm. Ông cũng là một cộng tác viên kỳ cựu của Tuyển tập Tagalau như đã nói ở trên.

           Tháng 10/2009 ông đến California để tham dự lễ Katê của cộng đồng người Việt gốc Chàm tại đây. Ông đã được mời phát biểu cảm tưởng tại buổi lễ. Theo ông, dân tộc Chàm muốn sống với nhau tốt, muốn tồn tại tốt cần thể hiện 3 yếu tố: Đoàn kết, Bảo tồn và Phát triển.

            Đối với người Chàm, đoàn kết được thì sẽ được tất cả, và không đoàn kết thì sẽ mất tất cả. Điều này mang ý nghĩa sau khi bị “vong quốc” sẽ lại phải “vong thân”.

           Người Chàm cần bảo tồn ngôn ngữ và chữ viết của mình, vì “tiếng Chàm còn thì người Chàm còn; tiếng Chàm mất thì người Chàm mất”.

            Nếu tồn tại được mà không phát triển thì chỉ “tồn tại như một dân tộc bần cùng”, “vùi dập trong cuộc sống lạc hậu, tối tăm”.

           Có lẽ đó cũng chính là lời kết của bài viết này về… “Người Chàm trong mắt tôi”.


Thánh địa Mỹ Sơn

***
Chú thích:

[1] Tagalau tiếng Chàm là cây bằng lăng hoa tím, mọc nhiều ở miền núi Ninh Thuận và Bình Thuận. Tuyển tập mang tên Tagalau vì nó tượng trưng cho tính dân dã, sức chịu đựng, sự khiêm tốn: nỗ lực nở hoa dù phải mọc trên mảnh đất nghèo cằn.
Tagalau là Tuyển tập chứ không phải là Tạp chí nên không ra định kỳ, mà chỉ được xuất bản khi tập hợp đủ bài vở. Số đầu tiên của Tuyển tập Tagalau ra mắt vào lễ Katê của người Chàm năm 2000.

[2] Chế Lan Viên (1920 – 1989), tên thật là Phan Ngọc Hoan, ra đời tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung rồi đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ.
Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam.
Trước năm 1945, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa "trường thơ loạn": Kinh dị, thần bí, bế tắc của thời Điêu tàn với xương, máu, sọ người, với những cảnh đổ nát của tháp Chàm. Những tháp Chàm "điêu tàn" là một nguồn cảm hứng lớn đáng chú ý của Chế Lan Viên. Qua những phế tích đổ nát và không kém phần kinh dị trong thơ Chế Lan Viên, ta thấy ẩn hiện hình bóng của một vương quốc hùng mạnh thời vàng son, cùng với nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ.
Phong cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng - triết lý, "chất suy tưởng triết lí mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa". Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng.

[3] Hận Đồ Bàn do ca sĩ Chế Linh trình bày:

[4] Tham khảo về Chế Linh tại:

[5] Tham khảo trang web của Inrasara về chuyện Chế Linh và Nguyễn Thị Thúy Hằng: http://inrasara.com/2010/11/26/






Thứ Hai, 9 tháng 12, 2013

Quân khốn nạn! Dám kéo đổ và đập nát tượng Lê-Nin.

     Ngày 08/12/2013, những phần tử biểu tình chống chính phủ tại Ukraine đã kéo đổ tượng của lãnh tụ cách mạng Nga Vladimir Lenin tại Đại lộ Shevchenko, trung tâm thủ đô Kiev.

     Hàng trăm ngàn người biểu tình đã dùng dây và thanh sắt kéo đổ rồi thay phiên nhau dùng búa tạ đập vỡ bức tượng Lenin cuối cùng, "to đẹp nhất" ở Ukraine.

     (Tụi Ukraine nầy thiệt là quá đáng! Chúng còn tệ hơn bọn Mông Cổ nhiều, tuy bọn Mông Cổ có gọi Vladimir Ilyich Lenin và các đồng chí cộng sản của Người là "những tên sát nhân" (nguyên văn: "..., He denounced Lenin and his fellow communists as "murderers") nhưng chúng chỉ gỡ bỏ bức tượng đồng cuối cùng của Vladimir Ilych Lenin và đem đi bán đấu giá chớ không đập nát đi như vậy, coi lại ở đây)

 
 Coi video clip ghi lại cảnh tượng đó:




Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2013

Đánh giá về vai trò của chúa Nguyễn và triều Nguyễn

UPDATE 06/7/2013: 
     Rồi cũng đã có chuyển biến! Ngày 02/7/2013, báo Bình Định có bài "Tìm hiểu nhân vật lịch sử Ngô Tùng Châu", đã nêu lên được: "Mặc dù sinh quán của ông là Bình Định, sự nghiệp công danh của ông cũng để dấu ấn tại Bình Định, thế nhưng về thân thế sự nghiệp nhân vật lịch sử Ngô Tùng Châu trong sử sách ghi chép quá ít. Với những tư liệu mới của dòng tộc cung cấp, sẽ giúp chúng ta, những thế hệ mai sau hiểu về ông nhiều hơn."

     Đặc biệt bài báo còn cung cấp cho độc giả một thông tin khá "độc đáo""Sau ngày giải phóng, Lăng Ngô Tùng Châu được trưng dụng làm trụ sở UBND xã Cát Tài đến ngày nay."!

ORIGINAL POST, 01/7/2011:
(Bài tham góp trên Diễn đàn "Bình Định FFC": ở đây)

     Nên chăng cần có đánh giá khách quan để vinh danh tài năng và tiết nghĩa của những người con đất Bình Định từng là danh thần của chúa Nguyễn và triều Nguyễn Gia Miêu?
    
     Đã có Hội thảo “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam”:



     Như vậy, liệu ta có nên "khách quan, trung thực, công bằng" để nhìn nhận và đánh giá lại, ít nhất là về tài năng, nghĩa khí và lòng trung liệt, của những người  con đất Bình Định đã từng phục vụ cho chúa Nguyễn và triều Nguyễn, như: Châu Văn Tiếp, Lê Chất, Ngô Tùng Châu, Đặng Đức Siêu (ở đây, hoặc ở đây), v.v...

Thứ Tư, 10 tháng 4, 2013

Chiến dịch Babylift và sự trở về của một trẻ mồ côi được đưa đi từ Quy Nhơn

Chiến dịch Babylift:
  
     “Babylift” là cách người ta gọi những trẻ em bị đưa khỏi miền Nam VN theo một chương trình mang tên “Chiến dịch đưa trẻ em ra đi” (Operation babylift) tới Mỹ và một số nước khác (như Úc-Đại-Lợi, Gia-Nã-Đại,...). Ngày 03-4-1975, tổng thống Mỹ Gerald Ford ký sắc lệnh “Babylift” để di tản trẻ mồ côi khỏi các cô nhi viện ở Sài Gòn.

     Theo kế hoạch, 30 chuyến bay được điều động để cùng với các phương tiện khác di tản trẻ mồ côi VN với một ngân sách đặc biệt khoảng 2 triệu USD.

     Tính đến khi chuyến bay cuối rời sân bay Tân Sơn Nhất vào ngày 26-4-1975, đã có hơn 2.000 trẻ rời VN theo chương trình này. Tuy nhiên con số chính thức vẫn chưa được xác định. Có tin nói rằng khoảng 4.000 trẻ đã được đưa đi, trong đó khoảng 2.700 trẻ đến Mỹ, 1.300 trẻ đến Gia-Nã-Đại, Úc-Đại-Lợi và các nước châu Âu. (Theo Vì sự đoàn tụ của gia đình Việt)

     Thân phận của 3.000 trẻ em ngày đó đã và đang sống ra sao tại nước ngoài? Đó là câu hỏi ít khi người ta nghĩ đến.

Và sự trở về của một trẻ mồ côi được đưa đi qua Mỹ từ Quy Nhơn - Bình Định :

     Lang thang trên mạng, tình cờ tôi bắt gặp trang web của Julie, tên Việt Nam là Nguyễn Thị Thanh Trúc, một trẻ mồ côi được Operation Babylift đưa từ Ghềnh Ráng - Quy Nhơn - Bình Định sang làm con nuôi một gia đình người Mỹ tại Seattle, tiểu bang Washington. Julie được nuôi dạy và lớn lên như bất kỳ một đứa trẻ nào trên đất Mỹ. Khác biệt duy nhất là Julie có vóc người châu Á nhỏ bé hơn so với các bạn bè đồng trang lứa. Hiện nay Julie đã lập gia đình với Brad Davis và trở thành bà Julie Davis.

     Năm 2003, lần đầu tiên trở về Việt Nam cùng chồng trong nửa tháng trời, Julie kể lại: “Chuyến bay từ Mỹ về Việt Nam kéo dài hơn 20 giờ mà tôi có cảm tưởng dài đến 20 năm… Khi phi cơ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, Brad vỗ vai tôi, ý nhị: ‘Chúng ta đã đến nơi. Em đã về nhà’… Sau khi đi thăm Sài Gòn, Đồng bằng sông Cửu Long, chúng tôi về lại Quy Nhơn và đến tận Viện Mồ côi Ghềnh Ráng để thăm lại nơi xuất xứ của tôi…”

Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013

Chào mừng 106 năm, ngày sinh cố Tổng Bí thư đảng ta: Đồng chí Lê Duẩn!

(07-4-1907 – 07-4-2013)
Mời coi cho biết:

     1./ Cha tôi, Lê Duẩn và kỷ niệm với Trung Quốc:  (Coi nguyên bổn: ở đây), Thì ra hiệp định Genève 1954 và hiệp định Paris 1973 đều không phải do Đảng và Nhà nước ta định đoạt!
Hoặc click chuột vô image để coi rõ hơn
      2./ Coi và nghe người vợ miền Nam (vợ lẻ - thứ thất) của đ/c cố Tổng Bí thư Lê Duẩn kể chuyện: 
          a./ Lấy chồng và chăm sóc cho chồng có sức khoẻ để làm việc cũng là "một nhiệm vụ"
            b./ Con gái của bà, lấy chồng người Nga, chết oan vì là con của đ/c Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam
  (Click chuột vô đây để coi chi tiết)



Thứ Tư, 14 tháng 11, 2012

"Chết oan" vì là con của đ/c Tổng Bí thư!

    Hãy coi và nghe người vợ miền Nam (vợ lẻ - thứ thất) của đ/c cố Tổng Bí thư Lê Duẩn kể chuyện!

     1./ Lấy chồng và chăm sóc cho chồng có sức khoẻ để làm việc cũng là "một nhiệm vụ": "...Anh Ba muốn hỏi chị làm vợ. Chị nên ưng anh ấy đi. Anh xa nhà đã 20 năm không có tin tức gì của gia đình. Gia đình anh ấy còn ở vùng địch. Nếu chị làm vợ anh ấy, chị chăm sóc anh ấy để anh có sức khỏe làm việc đó cũng là một nhiệm vụ. Anh ấy hiện nay trong lãnh đạo, anh rất thông minh và sáng suốt..." (Nguyên bổnđây)
     

















 2./ Con gái của bà, lấy chồng người Nga, chết vì là con của đ/c Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam:

    3./ Coi và nghe bà kể nhiều chuyện hơn:
 Phần 1:

 Phần 2:
Phần 3:
 Phần 4:


Thứ Tư, 17 tháng 10, 2012

Quân khốn nạn! Dám gỡ bỏ tượng Lê-Nin.

     Theo nguồn tin của hãng thông tấn UPI (Coi chi tiết ở đây) và BBC News Asia (Coi chi tiết ở đây).

     Ngày 14/10/2012, tại Ulan-Bator, thủ đô Mông Cổ, đã gỡ bỏ bức tượng đồng cuối cùng của Vladimir Ilych Lenin (Влади́мир Ильи́ч Ле́нин) và sẽ đem đi bán đấu giá với giá khởi điểm khoảng $ 280.

     Thiệt là khốn nạn! Còn khốn nạn hơn nữa khi trong bài phát biểu 10 phút tại buổi lễ, viên Thị trưởng thành phố Ulan-Bator là Bat-Uul Erdene dám "tố cáo" Vladimir Ilyich Lenin và các đồng chí cộng sản của Người là "những tên sát nhân" (nguyên văn: "..., He denounced Lenin and his fellow communists as "murderers")
Coi Video ghi lại cảnh tượng này:
P/s: Ở Thủ đô Hà Nội chúng ta cũng có 1 tượng Lê-Nin ở công viên Lê Nin (trước đây là vườn hoa Chi Lăng), đối diện với Bảo tàng Lịch sử Quân sự. Có du khách nước ngoài nhận xét "ngạc nhiên khi nó vẫn còn đứng" (nguyên văn: "Surprised that it is still standing"). Coi chi tiết ở đây.

    Xin lưu ý: Ở Mông Cổ, tượng bán thân của chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn tại vị (Trong khi tượng toàn thân của Lê-nin đã bị gỡ bỏ)

     Phải nên biết rằng: "Chủ nghĩa Lê-nin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản." (Coi chi tiết ở đây.)

    Coi thêm:  Một sự kiện có liên quan (Ukraine đã kéo đổ tượng của lãnh tụ cách mạng Nga Vladimir Lenin) ở đây.
 

Thứ Sáu, 19 tháng 8, 2011

Tưởng niệm 20 năm, ngày Liên Xô sụp đổ

Tại sao Liên Xô sụp đổ vào ngày 19/8?
   1./ Theo Thiếu tướng, GS Bùi Phan Kỳ, VN:
Là do bị "diễn biến hòa bình": (Coi đầy đủ: ở đây)
        "..... Bị "diễn biến" thường xảy ra vào lúc ít ai ngờ tới: Liên Xô đang cải tổ để ..."có nhiều chủ nghĩa xã hội hơn", đã tự thấy đến thời kỳ "chủ nghĩa cộng sản phát triển", có thể "phân phối theo nhu cầu"CHDC Đức và Tiệp Khắc thì đã thành "đất hứa" của các nước chậm tiến... Nó diễn biến nhanh đến mức các lực lượng vũ trang không còn biết nghe ai và bắn vào đâu, như “đội An pha”, giữa đội trưởng và chính trị viên không nhất trí, đành... án binh bất động(!). Đảng tuyên bố tự giải tán, Nhà nước tự chuyển sang chế độ Tổng thống, đảng viên và quần chúng mặc cho nhóm phản động lộng hành... Có rất nhiều nguyên nhân nhưng nổi lên là việc chọn sai nhân sự... kế tục...."
    2./ Theo GS Vương Hải Vận, Trung Quốc:
      Năm 1991, sự kiện Đảng Cộng sản Liên Xô và Liên bang Xô Viết sụp đổ đã gây chấn động toàn thế giới. Hơn 20 năm nay, các học giả trên khắp thế giới vẫn không ngừng đi tìm đáp án thỏa đáng cho câu hỏi: "Tại sao Liên Xô sụp đổ vào ngày 19/8/1991?"
      Dưới đây là những chiêm nghiệm cá nhân của một học giả, GS. Vương Hải Vận, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Sử quan hệ Trung – Nga, Trung Quốc.
      Ngày 19/8/1991, một số quan chức Liên Xô phản đối những cải tổ của Gorbachev, dẫn đến "Sự kiện 19/8" chấn động cả thế giới. Trong thời gian này, tác giả đang công tác tại Đại sứ quán Trung Quốc tại Liên Xô, tận mắt chứng kiến toàn bộ quá trình của sự kiện mang tính lịch sử trọng đại này. 20 năm đã trôi qua, nhưng những điều nhìn thấy, nghe thấy và cảm nhận thấy vẫn rõ ràng như chuyện của ngày hôm qua.
Liên Xô trong những ngày chính biến

Thứ Năm, 18 tháng 8, 2011

Mừng CM tháng 8 và Quốc khánh 2-9!

Nhớ lại mấy bài hát tuyệt vời:

1./"CÙNG NHAU ĐI HỒNG BINH"
Một bài hát "trên cả tuyệt vời" vì "...Đời ta không cần lo. Nhà ta không cần tiếc.. Nào anh em nghèo đâu. Liều thân cho đời sống. Mong thế giới đại đồng tiến lên quân Hồng"
  
2./"QUỐC TẾ CA"
Cũng là một bài hát "trên cả tuyệt vời" vì "...Nay mai cuộc đời của toàn dân khác xưa. Bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình"
Xin mời nghe và coi lời bài hát
1./"CÙNG NHAU ĐI HỒNG BINH"
Cùng nhau đi Hồng binh. Đồng tâm ta đều bước. Đừng cho quân thù thoát. Ta quyết chí hy sinh.
Nào anh em nghèo đâu. Liều thân cho đời sống. Mong thế giới đại đồng. Tiến lên quân Hồng!
Đời ta không cần lo. Nhà ta không cần tiếc. Làm sao cho toàn thắng. Ta mới sống yên vui.
Nào anh em nghèo đâu. Liều thân cho đời sống. Mong thế giới đại đồng. Tiến lên quân Hồng!
       
2./"QUỐC TẾ CA"
Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian, vùng lên hỡi ai cơ khổ bần hàn, sục sôi nhiệt huyết trong tâm đầy chứa rồi quyết phen này sống chết mà thôi.
Chế độ xưa ta mau phá sạch tan tành toàn nô lệ vùng đứng lên đi. Nay mai cuộc đời của toàn dân khác xưa bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình.
Đấu tranh này là trận cuối cùng kết đoàn lại để ngày mai L’Internationale sẽ là xã hội tương lai.
Đấu tranh này là trận cuối cùng kết đoàn lại để ngày mai L’Internationale sẽ là xã hội tương lai. 

Thứ Bảy, 18 tháng 6, 2011

Con Bà Tướng

Cả khu này chỉ có hai gia đình: tôi và nó là Việt Nam nên trở thành thân nhau, mặc dù nó trẻ hơn tôi 10 tuổi...
 Nhiều buổi chiều trong tuần, tôi và nó gặp nhau sau vườn, làm vài chai cùng trò chuyện. Nó khoái nghe tôi kể về những Anh Hùng của lịch sử Việt Nam: Hai bà Trưng, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Vua Quang Trung... Nó chăm chú nghe, mỗi lần đến những đoạn chiến thắng ngoại xâm, nó đều la lên sảng khoái:
 - "Người Việt Nam mình ”ĐÔ thiệt"
 Rồi tu chai bia ùng ục.
Tới khi tôi kể đến đoạn vua Quang Trung băng hà:
- "Vua Quang Trung trút hơi thở cuối cùng... Hôm ấy trời đang nắng, bỗng như tối sầm lại. Mây đen từ phiá biển cuồn cuộn theo gió kéo tới. Từng đàn chim trời lũ lượt bay qua nóc cung điện nhà Vua, cùng buông ra những tiếng kêu thê thảm, như than vãn cho vị anh hùng vừa sớm lìa đời...
 Vua Quang Trung mới vừa 39 tuổi, lên ngôi chưa đầy năm năm, đã không còn nữa!!! ..."
 Mặt nó chùng xuống, nước mắt chảy dài....Tôi kể tiếp:
- ”Rồi Bà Tướng Bùi thị Xuân bị bắt, nhà Nguyễn điệu mẹ con Bà Tướng ra pháp trường cho voi dày... Con Bà Tướng sợ quá, khóc thét lên... Bà Tướng quát to:
- Con nhà tướng không được khóc.
Con Bà Tướng không la khóc nữa, chịu voi dày mà chết..."
 Lần này, khuôn mặt no lạnh tanh... Nói ngập ngừng trong vẻ giận dữ:
- ”Bà Tướng là người anh hùng thì có thể... chứ con Bà Tướng, biết gì mà im lặng chịu voi dày mà chết. Lịch sử Việt Nam mình quá oai hùng... nhưng đừng thêu dệt thêm... làm mất đi tính chất..."
Tôi trầm ngâm.. kể cho nó nghe câu chuyện gần đây thôi, không thêu dệt:
- "Vợ tôi dẫn đứa con gái đầu lòng vừa mới 7 tuổi đi đường bộ... băng rừng, trèo đèo, vượt suối... gai cào, đá cắt.. con gái tôi cứ khóc thét lên. Mẹ nó nhỏ nhẹ:
- Nếu con khóc như thế này thì mẹ con mình sẽ không gặp được ba!!!
Từ đó, suốt chặng đường đi... con gái tôi cứ thui thủi đi tới, cắn răng mà chịu.
 Lúc đến nơi, tắm rửa cho nó.. vợ tôi chi biết ôm vào lòng mà khóc vì cả người nó bị cào xướt khắp nơi... Có chỗ sưng đỏ tấy, có chỗ đã nung mủ độc...
 Con tôi mà còn vậy... huống gì con Bà Tướng???"
 Nó bật lên câu nói như lúc trước:
- "Người Việt Nam mình "ĐÓ thiệt."
 Nhưng kèm thêm:
- "Mà người Việt Nam mình cũng "ÁC“ thiệt... Bà Tướng từng theo vua Quang Trung chinh Đông bình Bắc, không chết bởi bọn ngoại xâm mà lại bị chết bởi người Việt Nam mình... Người Việt Nam mình cũng "ÁC “ thiệt..."
Tự nhiên tôi thấy chưng hửng... Tưởng cứ kể chuyện thật về trang sử oai hùng của Việt Nam và những chuyện chung quanh để nó hãnh diện, nó có hãnh diện thật sự nhưng cái suy diễn thực tế của thời đại bây giờ... với lớp tuổi trẻ hiện nay, tự nhiên lại đem một vệt đen vào đầu óc nó.
 Tôi thấy: "Tôi bậy thiệt...!!!"...
THAN TA
(USA)

Thứ Bảy, 25 tháng 12, 2010

Công bố những tư liệu lịch sử cần phải theo một lộ trình thích hợp...

"Lịch sử là phải đúng sự thật, trung thực và chính xác, tuy nhiên việc công bố những tư liệu lịch sử cần phải theo một lộ trình thích hợp..." (Phát biểu tại buổi tiếp các thành viên BCH Hội Khoa học lịch sử Việt Nam của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết - Trích bản tin thời sự trên VTV )
"Hội phải tiếp tục làm tốt vai trò tư vấn, phản biện trong những vấn đề liên quan đến lịch sử, phải tiếp cận sự thật lịch sử, có định hướng dư luận để mỗi người dân có thể nhận thức rõ hơn từng vấn đề được nêu ra" (Trích bản tin trên báo Văn hóa )

Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đánh giá cao gần 4000 hội viên Hội Khoa học lịch sử Việt Nam cũng các nhà nghiên cứu lịch sử trong cả nước vì đã có những đóng góp cực kỳ quan trọng, có tác dụng to lớn và hết sức có ý nghĩa góp phần làm cho mỗi người Việt Nam tự hào về lịch sử, truyền thống của dân tộc và đã tiếp thêm sức mạnh có ý nghĩa sống còn cho cả dân tộc Việt Nam.

Chủ tịch nước nhấn mạnh, nhờ những công trình nghiên cứu về 4000 năm lịch sử của đất nước, đã bồi đắp và tiếp thêm sức mạnh cho mỗi tâm hồn Việt Nam và đã hun chí cho con người Việt Nam vượt qua bao thử thách để quyết tâm xây dựng một đất nước hùng cường. Chính những công trình nghiên cứu lịch sử cũng đã chứng minh dân tộc Việt Nam là một dân tộc có bản lĩnh, có ý chí và một dân tộc hội đủ chí thông minh, bản lĩnh, ý chí và lòng tự hào dân tộc thì làm bất cứ việc gì cũng thành công.

Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết bày tỏ mong muốn, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam sẽ tiếp tục những nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu những di sản, lịch sử còn ẩn chứa trong tâm hồn, nguồn cội của dân tộc Việt Nam để quảng bá, giới thiệu cho các thế hệ tiếp theo, nếu việc này bị xem nhẹ là sẽ tạo ra nguy cơ đối với sự tồn vong của dân tộc. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng hoan nghênh nỗ lực của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam trong việc tiếp cận với sự thật lịch sự, đồng thời khẳng định, đã là lịch sử thì phải đúng sự thật, trung thực và chính xác. Đối với những vấn đề trước đây công bố chưa chính xác thì khi đã có đủ tư liệu, cần có bước đi thích hợp để đính chính lại lịch sử.

Nhân dịp này, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng ủng hộ Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam xây dựng quỹ để tài trợ cho các hoạt động của mình, đồng thời đề nghị Hội làm thủ tục cần thiết để Chủ tịch nước có thể trao tặng Huân chương cho Hội.
Tác giả : Trung Kiên


VH- Tại buổi tiếp đoàn Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam do GS.NGND Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội dẫn đầu, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nhấn mạnh:
Những đóng góp của các nhà sử học là vô giá, có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Các nhà khoa học lịch sử Việt Nam phải tự hào về những đóng góp đối với đất nước, dân tộc. Cùng với đó, Hội phải tiếp tục làm tốt vai trò tư vấn, phản biện trong những vấn đề liên quan đến lịch sử, phải tiếp cận sự thật lịch sử, có định hướng dư luận để mỗi người dân có thể nhận thức rõ hơn từng vấn đề được nêu ra, bởi khoa học lịch sử là phải chính xác, trung thực.                       
THANH LÂM
Ảnh chụp mà hình trên vtv.vn và báo Văn hóa