Chiến dịch Babylift:
“Babylift” là cách người ta gọi những trẻ em bị đưa khỏi miền Nam VN theo một chương trình mang tên “Chiến dịch đưa trẻ em ra đi” (Operation babylift) tới Mỹ và một số nước khác (như Úc-Đại-Lợi, Gia-Nã-Đại,...). Ngày 03-4-1975, tổng thống Mỹ Gerald Ford ký sắc lệnh “Babylift” để di tản trẻ mồ côi khỏi các cô nhi viện ở Sài Gòn.
Theo kế hoạch, 30 chuyến bay được điều động để cùng với các phương tiện khác di tản trẻ mồ côi VN với một ngân sách đặc biệt khoảng 2 triệu USD.
Tính đến khi chuyến bay cuối rời sân bay Tân Sơn Nhất vào ngày 26-4-1975, đã có hơn 2.000 trẻ rời VN theo chương trình này. Tuy nhiên con số chính thức vẫn chưa được xác định. Có tin nói rằng khoảng 4.000 trẻ đã được đưa đi, trong đó khoảng 2.700 trẻ đến Mỹ, 1.300 trẻ đến Gia-Nã-Đại, Úc-Đại-Lợi và các nước châu Âu. (Theo Vì sự đoàn tụ của gia đình Việt)
Thân phận của 3.000 trẻ em ngày đó đã và đang sống ra sao tại nước ngoài? Đó là câu hỏi ít khi người ta nghĩ đến.
Và sự trở về của một trẻ mồ côi được đưa đi qua Mỹ từ Quy Nhơn - Bình Định :
Lang thang trên mạng, tình cờ tôi bắt gặp trang web của Julie, tên Việt Nam là Nguyễn Thị Thanh Trúc, một trẻ mồ côi được Operation Babylift đưa từ Ghềnh Ráng - Quy Nhơn - Bình Định sang làm con nuôi một gia đình người Mỹ tại Seattle, tiểu bang Washington. Julie được nuôi dạy và lớn lên như bất kỳ một đứa trẻ nào trên đất Mỹ. Khác biệt duy nhất là Julie có vóc người châu Á nhỏ bé hơn so với các bạn bè đồng trang lứa. Hiện nay Julie đã lập gia đình với Brad Davis và trở thành bà Julie Davis.
Năm 2003, lần đầu tiên trở về Việt Nam cùng chồng trong nửa tháng trời, Julie kể lại: “Chuyến bay từ Mỹ về Việt Nam kéo dài hơn 20 giờ mà tôi có cảm tưởng dài đến 20 năm… Khi phi cơ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, Brad vỗ vai tôi, ý nhị: ‘Chúng ta đã đến nơi. Em đã về nhà’… Sau khi đi thăm Sài Gòn, Đồng bằng sông Cửu Long, chúng tôi về lại Quy Nhơn và đến tận Viện Mồ côi Ghềnh Ráng để thăm lại nơi xuất xứ của tôi…”
Qua người thông dịch tên Cường, một cựu phi công của miền Nam được đào tạo ở Mỹ, Julie tìm lại được bà xơ Emilienne, người đứng tên trên giấy khai sinh của Julie. Người nữ tu chỉ biết mẹ của Julie đã qua đời ngay sau khi sinh con nên bà đứng tên trên giấy khai sinh cũng họ Nguyễn như bà. Cội nguồn của Julie chỉ có thế nhưng cũng đủ để cô tìm hiểu về quá khứ của mình.
Vợ chồng Julie Nguyễn Thị Thanh trúc cùng xơ Emilienne |
Vợ chồng Julie Thanh Trúc tại bãi biển Quy Nhơn |
Vợ chồng Julie cùng các em khuyết tật tại trung tâm dạy nghề Nguyễn Nga |
......
(Lược dịch tóm tắt từ bài viết của đương sự. Mọi người có thể coi nguyên bổn bài viết của Julie với một số hình ảnh chuyến về Quy Nhơn của cô cùng chồng, với tu viện Ghềnh Ráng, biển Quy Nhơn, trung tâm dạy nghề Nguyễn Nga, cùng các trẻ em khuyết tật,... ở đây)
Từ nhơn duyên đó, khiến tôi tìm hiểu và lượm lặt được một số thông tin và hình ảnh về chiến dịch Babylift (nguồn thông tin từ một cựu Sĩ quan, cựu giảng viên trường Sinh ngữ Quân đội, ký giả, của "bên thua cuộc"):
Khoảng 4 giờ chiều, Thứ Sáu, ngày
4/4/1975, một chiếc phi cơ vận tải quân sự C-5A Galaxy của Hoa Kỳ mang
ký hiệu 68-0218 cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất trực chỉ Clark Air
Base tại Phi Luật Tân. Đó là chuyến bay quân sự đầu tiên di tản các trẻ
em mồ côi Việt Nam sang Mỹ trong sứ mạng Operation Babylift do đích thân Tổng thống Gerald Ford tuyên bố một ngày trước đó.
Tin “chấn động” vì chiếc C-5A Galaxy,
phi cơ vận tải quân sự lớn nhất của không Hoa Kỳ vào thời điểm 1975, đã
bị trục trặc kỹ thuật và rơi trong khi cố quay lại đường băng 25L Tân
Sơn Nhất. Tai nạn xảy ra khiến 138 hành khách bị thiệt mạng, trong đó có
78 trẻ mồ côi người Việt và 35 nhân viên Văn phòng Tùy viên Quốc phòng
(Defense Attache Office – DAO) người Mỹ tháp tùng.
Phi cơ vận tải C-5A Galaxy cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất
Người ta kể lại, khoảng 12 phút sau khi
cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất, một tiếng nổ phát ra từ phía đuôi
của chiếc Galaxy, tạo ra một lỗ hổng lớn. Áp suất trong phi cơ thay đổi
đột ngột và phi hành đoàn quyết định bay trở lại hướng Tân Sơn Nhất.
Nhưng đã không kịp.
Phi cơ phải đáp khẩn cấp bằng bụng,
trượt dài hàng trăm mét trên một ruộng lúa, đụng vào bờ đê và cuối cũng
vỡ thành 4 mảnh. Một cột khói cao ngất xuất hiện trên bầu trời gần phi
trường trước khi lực lượng tiếp cứu có mặt tại địa điểm xảy ra tai nạn.
Cột khói bốc lên sau khi chiếc Galaxy gặp nạn
Trực thăng cấp cứu bay đến An Phú Đông
(nay thuộc quận 12), nơi phi cơ bị rớt. Đây là một khu vực ruộng lúa
ngập nước và chỉ khoảng phân nửa số hành khách được cứu sống. Những
người ngồi ở phần đuôi máy bay đều bị thiệt mạng. Thân thể họ nằm vương
vãi trên một diện tích rộng hằng trăm mét vuông.
Xác của chiếc Galaxy tại khu vực An Phú Đông
Trực thăng cứu nạn chỉ bay lơ lửng trên
đầu vì không thể đáp xuống ruộng lúa ngập nước. Những người sống sót,
gồm phi hành đoàn, y tá và nhân viên thiện nguyện, phải lội ruộng, trên
tay bồng những trẻ sơ sinh giữa những cơn gió xoáy của cánh quạt trực
thăng.
Những trẻ mồ côi sống sót sau tai nạn
Nhưng rồi họ cũng chuyển được một số trẻ
em lên trực thăng. Người ta vẫn tự hỏi, biết đâu tại nơi xảy ra tai nạn
cũng còn những em thoi thóp nhưng người cứu nạn không nhìn thấy. Số
phận của những trẻ mồ côi này cũng được coi như đã chết như những bạn
đồng trang lứa vắn số khác. Đó là nghịch cảnh của chiến tranh. Khoảng
cách giữa sự sống và cái chết rất mong manh.
Bà Allison Martin [*] kể lại: “Ở phần đuôi máy bay đa số là trẻ em dưới 2 tuổi và có 7 nhân viên tình nguyện người Mỹ. Trong số những người sống sót, có đến 170 người bị thương tích nặng, trong đó có một cô bé sau này được báo chí nhắc đến qua tên Melody khi tài tử nổi tiếng Yul Brynner đã nhận làm con nuôi”.
Bà Allison Martin [*] kể lại: “Ở phần đuôi máy bay đa số là trẻ em dưới 2 tuổi và có 7 nhân viên tình nguyện người Mỹ. Trong số những người sống sót, có đến 170 người bị thương tích nặng, trong đó có một cô bé sau này được báo chí nhắc đến qua tên Melody khi tài tử nổi tiếng Yul Brynner đã nhận làm con nuôi”.
Theo kế hoạch do Tổng thống Gerald Ford công bố, Operation Babylift
sẽ sử dụng khoảng 30 chuyến bay - cả phi cơ quân sự lẫn dân sự - để di
tản 70.000 trẻ mồ côi ra khỏi Việt Nam vào tháng 4/1975. Kế hoạch được
tài trợ một ngân khoản 2 triệu đô-la từ quỹ hỗ trợ đặc biệt của chính
phủ Hoa Kỳ.
Ông Gerald Ford đã xuất hiện trên truyền hình Mỹ khi đích thân đến phi trường San Francisco đón một trong những chuyến bay chở trẻ mồ côi từ Việt Nam
đến. Trong mắt người dân Hoa Kỳ, hình ảnh ông bồng một đứa trẻ từ trên
máy bay xuống đã vớt vát phần nào thể diện của một vị tổng thống trước
biến cố 30/4/1975.
Tổng thống Gerald Ford đón trẻ mồ côi tại phi trường San Francisco
Tuy nhiên, có thể nói, Operation Babylift
đã diễn biến không theo đứng kịch bản mà chính phủ Mỹ đã phác họa.
Chiến dịch chỉ có thể di tản khoảng hơn 3.000 cô nhi thì phi trường Tân
Sơn Nhất bị pháo kích và cuộc chiến Việt Nam đã chấm dứt vào ngày 30
tháng 4 năm 1975.
Tại Mỹ, tin tức về thảm họa Galaxy được coi là điềm xấu báo trước một biến cố còn nhiều kịch tính hơn nữa đối với miền Nam
khi bị hoàn toàn sụp đổ. Thế nhưng, vào thời điểm 1975, người Mỹ không
có cách nào khác hơn là tiếp tục chiến dịch Babylift trước tình hình
chiến sự ngày càng nguy ngập.
Tân Sơn Nhất không còn thời gian để tưởng niệm những hành khách đi trên chiếc Galaxy định mệnh. Chỉ một ngày sau tai nạn, Operation Babylift
được tiếp tục tiến hành. Một chiếc Boeing 747 được thuê từ hãng hàng
không Pan American Ariways để chở 409 trẻ em và 60 nhân viên chăm sóc.
Và cứ thế, các chuyến bay thuê với các hãng hàng không khác như United
Airways, World Airways, Air America… liên tục bốc trẻ mồ côi ra khỏi Sài Gòn.
Làm thế nào để vận chuyển một số lượng
khổng lồ hành khách gồm toàn trẻ em trong đó có cả trẻ sơ sinh là cả một
vấn đề đối với các nhân viên di tản. Trong cuốn This Must be my Brother, Leann Thieman kể lại:
“Chúng tôi không có thì giờ cho các
em ăn… đồng loạt bấy nhiêu cái miệng đều cất tiếng khóc… Cuối cùng, một
sáng kiến được đưa ra: cứ 3 em được đặt trong thùng giấy carton và mỗi
em có một bình sữa đặt trên vai người bạn nằm cùng thùng. Với cách này,
có em bú thoải mái nhưng cũng có em gặp khó khăn khi bình sữa rơi khỏi
miệng…
Tôi đặt một em bé gái trên đùi để em
bú bình sữa còn tay kia cầm bình sữa cho một em khác nằm trong hộp nhưng
hình như em không đủ sức để bú nên cuối cùng tôi phải dùng tay bóp vào
núm vú cho sữa chảy mạnh…”
Trên chiếc Galaxy đầu tiên rời Sài Gòn
ngày 4/4/1975 những hành khách nhỏ tuổi nhất đều nằm trong hộp, được
chằng bằng dây đai an toàn. Những “hộp người” đó nằm giữa lòng phi cơ.
Những em lớn hơn ngồi trên hai hàng ghế bằng nhôm dọc theo thân tàu…
Người lớn đi theo gồm nhân viên phi hành đoàn và những người tình nguyện
làm việc một cách vất vả trong một trạng thái tinh thần căng thẳng khi
tiếng súng đã vọng về từ các vùng lân cận quanh thủ đô.
“Hành khách” sơ sinh được để trong hộp carton
Miriam Vieni, một người hoạt động xã hội người Mỹ và cũng là mẹ nuôi của một trẻ mồ côi người Việt, nhớ lại:
“Sáng hôm nghe tin chuyến bay di tản
đầu tiên bị rớt, một số bạn bè tụ họp tại nhà tôi để chờ nghe tin tức.
Bỗng điện thoại reo liên tục, người ta hỏi thăm về thủ tục nhận con
nuôi. Họ biết được số điện thoại của tôi qua một bài báo trên Newsday.
Không chỉ qua điện thoại, có người còn đến tận nhà để lấy thông tin…
Người ta phấn khởi khi biết họ có thể
nhận nuôi những trẻ Việt sẽ sang Mỹ một cách hợp pháp qua Operation
Babylift và như thế là họ làm thủ tục nhận nuôi dù khi đó các em còn
chưa lên máy bay rời khỏi Việt Nam.”
Cặp vợ chồng Pat và Dave Palmer từ Iowa kể lại việc làm thủ tục nhận con nuôi: “Khi nộp đơn xin con nuôi, chúng tôi phải tiến hành thủ tục một cách mau lẹ vì tình hình chính trị ở Việt Nam lúc đó quá rối ren. Rất khó có thể liên lạc bằng điện thoại với cơ quan FCVN [Friends of Children of Viet Nam]
vì đường dây luôn bị nghẽn mạch. Chúng tôi phải dùng đến điện tín để
liên lạc và kết quả là chúng tôi có một cậu con nuôi 1 tuổi. Không phải
chỉ cuộc đời cháu bé mà chính cuộc đời chúng tôi cũng đã thay đổi từ đó”.
Tại Úc, trong bản báo cáo về tình trạng nhận con nuôi qua Operation Babylift, Ian Harvey cho biết: “Tháng 4/1975, khi có tin nước Úc sẽ tiếp nhận trẻ mồ côi Việt Nam làm con nuôi, một số gia đình người Úc đã vội vã nộp đơn. Riêng tại bang New South Wales là nơi đến của 14 trẻ Việt nhưng số đơn xin nhận con nuôi đã vượt con số 4.000”.
Theo báo cáo Ian Harvey, có trên 90% gia
đình Úc có con nuôi người Việt ghi nhận sự thành công của việc họ nhận
con nuôi. Tuy nhiên, đối với những gia đình tiếp nhận con nuôi từ 4 tuổi
trở lên gặp khó khăn hơn những người khác vì càng lớn trẻ mồ côi càng
khó thích nghi hơn với cuộc sống mới.
Trẻ mồ côi đến Úc trong chuyến di tản ngày 17/4/1975
Ngay từ đầu tháng 4/1975, hàng loạt các tổ chức từ thiện trong đó có Holt International Children’s Services, Friends of Children of Vietnam, Catholic Relief Service, International Social Services, International Orphans và Pearl S. Buck Foundation thỉnh nguyện chính phủ Hoa Kỳ di tản trẻ mồ côi bị lưu lạc từ các trại mồ côi tại miền Trung đang bơ vơ giữa Sài Gòn hỗn loạn.
Cho đến bây giờ, vẫn chưa có con số
chính xác trẻ mồ côi được di tản khỏi Sài Gòn vì tình hình rối ren lúc
đó. Có khoảng 2.000 trẻ được đưa sang Hoa Kỳ và khoảng 1.300 trẻ được di
tản đến Gia-Nã-Đại, Âu
châu và Úc. Ngoài những chuyến bay chính thức, hằng ngày từ 4 đến 7
chuyến, còn có những chuyến bay bằng phi cơ nhỏ qua các hợp đồng kéo dài
suốt tháng 4.
Những “hành khách” trên chuyến bay di tản
Dư luận Mỹ bị phân hóa vì những quan điểm đối chọi nhau về Operation Babylift. Thậm chí trên báo còn có những câu hỏi nhức nhối: Babylift or babysnatch?, tạm dịch là Di tản trẻ em hay giành giựt trẻ em? và The Orphans: Saved or Lost? (Trẻ mồ côi: Cứu giúp hay Mất mát).
Trần Tương Như, một trong số ít người Việt sống tại Mỹ từ trước 1975 và cũng là một thành viên hỗ trợ đắc lực cho Operation Babylift tại San Francisco lúc đó. Bà Như và một số người tình nguyện khác đã khám phá một sự thật ngay từ những ngày đầu của Operation Babylift:
một số nhỏ trẻ mồ côi được di tản sang Mỹ thực sự không phải là cô nhi,
chúng được các gia đình khá giả gửi theo để được di tản sang Mỹ một
cách an toàn.
Sau này, đã có những vụ kiện tại Mỹ về những trường hợp trẻ em bị đưa khỏi Việt Nam “ngoài ý muốn của cha mẹ chúng”. Dĩ nhiên những người khởi kiện chính là các gia đình người Việt hiện định cư tại Mỹ.
Người ta cũng không loại trừ trường hợp
trong tình trạng hỗn loại vào tháng 4/1975 nhiều gia đình bằng mọi cách
gửi con đi theo chiến dịch di tản trẻ mồ côi và thời gian sau lại kiện
các gia đình Mỹ đã nhận con cái của họ làm con nuôi như bà Như đã phát
hiện từ đầu.
Một số người cho rằng việc di tản trẻ mồ
côi Việt Nam, trong đó có cả những đứa con lai do hậu quả của chiến
tranh, sẽ đem lại cho các em một cuộc sống tốt đẹp hơn so với nơi các em
ra đời. Họ cũng cảm thấy Operation Babylift là nguồn an ủi tinh thần mang tính cách nhân đạo trước những hậu quả tàn khốc của cuộc chiến tranh Việt Nam.
Ngược lại, có dư luận cho rằng Operation Babylift
là một chiến dịch hoàn toàn vì mục đích chính trị, thậm chí còn là “đòn
chính trị cuối cùng” của chính phủ Mỹ trước khi rời khỏi Việt Nam.
Cảnh di tản chụp từ trong máy bay
Bà Miriam Vieni giải thích về những ý kiến tương phản nhau trong việc Operation Babylift đưa trẻ mồ côi người Việt sang Mỹ:
“Một số người cho rằng đưa trẻ em ra
khỏi quốc gia nơi các em sinh sống là sự vi phạm quyền thiêng liêng của
con người khi các em chưa đủ trí khôn để chọn lựa và quyết định. Một số
người lại nghĩ những trẻ mồ côi người Việt phải được chính người Việt
giải quyết. Trên TV, một số khác không ủng hộ việc chọn con nuôi khác
nguồn gốc chủng tộc, họ còn đưa ra trường hợp tại sao không chiếu cố đến
một số trẻ mồ côi người Mỹ gốc Phi còn đang chờ các gia đình Mỹ nhận
nuôi”.
Về phía các gia đình Mỹ nhận con nuôi
người Việt cũng có những suy nghĩ cho rằng những đứa con mà họ nuôi nấng
và dạy dỗ bấy lâu nay vẫn còn một hố sâu ngăn cách vô hình. Một cuộc
khảo sát cho thấy những trẻ mồ côi có một cuộc sống khá đầy đủ trong
suốt thời kỳ thơ ấu tại Mỹ. Đến gia đoạn trưởng thành, những đứa trẻ mồ
côi ngày nào sẽ có những suy nghĩ và sự dằn vặt về cội nguồn của mình.
Chú Sam bồng một trẻ Việt (Chiến tranh Việt Nam)
Nữ thần Tự do bồng một trẻ Triều Tiên (Chiến tranh Triều Tiên)
Nữ thần Tự do bồng một trẻ Triều Tiên (Chiến tranh Triều Tiên)
***
[*] Allison Martin, Chủ tịch hiệp hội Families with Children from Vietnam (Gia đình có những trẻ em Việt Nam), mở một website http://www.adoptvietnam.org/
trong đó có rất nhiều bài viết về chiến dịch Babylift của các gia đình
Mỹ cũng như các thành viên Babylift. Gia đình Martin có 3 người con,
trong đó người nhỏ nhất là con nuôi từ Việt Nam năm 1997.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Dùng mã code dưới đây để chèn nguồn từ bên ngoài vào comment:
Link : <a href="Link URL">CLICK HERE </a>
Hình ảnh : [img]Link hình ảnh URL[/img]
Youtube clip : [youtube]Link video từ yotube[/youtube]