“ 2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ.
3. Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để:
a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác,
b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội."
(Điều 19. Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, LHQ biểu quyết năm 1966, VN ký và tham gia ngày 24/9/1982).
Biết được sự thiệt tuy khó, nhưng còn khả dĩ; nói rõ được sự thiệt hầu như bất khả !"... ĐÃ XA RỒI CÁI THỜI MÀ AI NÓI RA ĐIỀU GÌ CŨNG SỢ BỊ PHÊ PHÁN MẤT LẬP TRƯỜNG, CẢ XÃ HỘI BỊ ÉP SỐNG TRONG CÁI VỎ ĐẠO ĐỨC GIẢ, TỪ TRÊN XUỐNG DƯỚI, NÓI THÌ RẤT HAY, NHƯNG LÀM THÌ NGƯỢC LẠI..." (GS Hoàng Tụy)
Suy gẫm hôm nay: "VẪN BIẾT SỐNG LÀ HƯỚNG ĐẾN TƯƠNG LAI, NHƯNG QUÁ KHỨ LÀ TẤM GƯƠNG NÊN SOI LẠI!"
Hiển thị các bài đăng có nhãn Về: Văn hóa VN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Về: Văn hóa VN. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 4 tháng 8, 2015

NGƯỜI CHÀM TRONG MẮT TÔI

Vài lời "phi lộ":

     - Ngày 25/7/2015, trên "QuangTrung BinhKhe" có bài  "BÌNH CHIÊM KÝ" kể chuyện về Hoàng đế Lê thánh Tông "ngự giá bình Chiêm", một "ông vua hăm tám tuổi đeo gươm đi giữ nước";
     - Ngày 04/8/2015, trên Facebook của KTS Đinh Văn Quế qua bài thơ "THÀNH XƯA" có nhắc đến vài hoài niệm về "Thành Đồ Bàn xưa là kinh đô của Chàm";

           Khiến tui nhớ lại trên Blog của anh Nguyễn Ngọc Chính, ngày 12/8/2014, có bài "NGƯỜI CHÀM TRONG MẮT TÔI", nhắc đến những hoài niệm về người Chàm trong anh. Được sự đồng ý của anh, tui xin giới thiệu cùng mọi người:

Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ
Quay về xem non nước giống dân Chàm

(Chế Lan Viên)

           Ngoài tên gọi “Chàm” ta còn dùng các danh xưng như “Chăm”, “Hời”, “Chiêm Thành”… để chỉ một dân tộc đã từng có một quốc gia độc lập, hùng mạnh trong lịch sử, có nền văn hóa phát triển và là hậu duệ của các cư dân nền văn hóa Sa Huỳnh thời kì đồ sắt.

           Ngoài Việt Nam, người Chàm ngày nay còn tản mát đi các nước như Campuchia, Mã Lai, Thái Lan và Hoa Kỳ. Dân số tại Việt Nam theo điều tra năm 1999 là 132.873 người và theo tài liệu của Ủy ban Dân tộc năm 2008 là khoảng hơn 145.000 người, xếp thứ 14 về số lượng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

           Vấn đề đặt ra là giữa “Chàm” và “Chăm” thuật ngữ nào đúng? Thật ra thì từ năm 1979 người miền Nam mới thấy xuất hiện chữ “Chăm” từ chính quyền mới sau 30/4/1975. Trước đó, từ miền Trung trở vào Nam, chữ “Chàm” đã từng xuất hiện trong các địa danh, tên gọi cũng như danh từ riêng như Tháp Chàm, Cù Lao Chàm, giếng Chàm, vàng Chàm…

           Để chỉ người Chàm, người Việt tại miền Nam còn dùng những tên gọi như “Hời”, “Chiêm”, “Người đàng thổ” (khác với Người đàng quê là người Việt)… Theo một giải thích thì những chữ đó được dùng một cách “miệt thị” nhưng tôi thiết nghĩ đó là một nhận xét sai lệch, suy diễn bất hợp lý.

           Trước năm 1975 đã có những công trình học thuật như Từ điển Chàm – Việt – Pháp (của Cham Dohamide và Dorohiêm), Nguyễn Khắc Ngữ nghiên cứu về dân tộc học qua tác phẩm “Mẫu hệ Chàm” hoặc học giả Thiên Sanh Cảnh có một loạt bài về “Đám ma Chàm”… Rõ ràng là chữ Chàm ở đây không thể nào được dùng một cách “miệt thị” trong nghiên cứu.

           Lại nữa, một số tác giả người gốc Chàm đã dùng chữ Chàm hay Chiêm trong bút hiệu của mình như Khaly Chàm, Chiêm Nhân… Không lý nào các tác giả đó lại tự miệt thị mình! Nhưng một khi nhận xét về sự “miệt thị” này xuất phát từ những người “có quyền” thì nó trở thành một quyết định và ngành văn hóa chỉ biết gọi là Chăm thay vì Chàm như lúc trước.

           Trong bài viết “Tiếng Chăm của bạn” trên Tuyển tập Tagalau [1], Inrasara cho rằng: “Dù sao, quy định của Nhà nước vẫn phải được tuân thủ. Tuân thủ, nhưng nếu có ai dùng từ “Chàm” trong bài viết, nhất là khi có người viết đúng các tên gọi cũ như Trung tâm Văn hóa Chàm, Ma Lâm Chàm chẳng hạn, ta phải chấp nhận và không biên tập. Bởi sự thể không có gì sai hay miệt thị người Chàm cả”.

Tagalau 12: Tuyển tập Sáng tác – Sưu tầm
 – Nghiên cứu văn hóa Chàm

           Khi còn nhỏ, người Chàm trong mắt tôi là những ông “Hời” ngồi bán thuốc dạo bên cạnh những chiếc giỏ đặc biệt… kiểu Chàm. Họ là những người có vẻ “thần bí” với những câu tiếng Việt lơ lớ, một cách rao hàng vừa tức cười nhưng cũng không kém phần… đe dọa: “Này, ngồi xuống đây tôi coi bệnh cho, mặt của anh có bệnh rồi…”. Tôi sợ lắm nên không trả lời, vội bước đi mà không dám ngoảnh đầu trở lại.

           Lớn lên khi tìm hiểu thêm, người Chàm ở Ninh Thuận lại cùng quê hương với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu! Thêm một phát hiện khiến nhiều người phải ngạc nhiên, trong đó có tôi, về mối tương quan giữ chiếc áo dài của người Chàm và người Việt.

           Các nhà nghiên cứu cho thấy chiếc áo dài Việt Nam là sự tổng hợp từ chiếc áo dài của người Chàm và chiếc “xường xám” của Thượng Hải. Theo Bùi Minh Đức trong Từ điển tiếng Huế, NXB Văn Học, 2009:

           “Chiếc áo dài của đàn bà Việt Nam khởi phát từ thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (cuối thế kỷ XVIII) với nền tảng là chiếc áo dài phụ nữ Chàm, kết hợp với chiếc áo tứ thân ở Bắc… Áo dài hai vạt của đàn bà Huế có được là do ảnh hưởng Chàm…”

           Lê Quý Đôn viết: “Chúa Nguyễn Phúc Khoát hùng cứ ở xứ Đàng Trong, sau khi chiếm trọn nước Chiêm Thành, mở mang bờ cõi về phương Nam… Để chứng tỏ tinh thần độc lập, Chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát đã chú trọng đến vấn đề cải cách xã hội, phong tục mà điều quan trọng là cải cách về y phục…”

           Lần tìm trong “Đại Nam thực lục tiền biên” ta bắt gặp đoạn văn sau đây: “Chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, ông đã triệu tập quần thần tìm phương thức xưng vương và dựng một tân đô. Ông đã thay đổi lễ nhạc, văn hóa và trang phục.

           Để thay đổi, phụ nữ miền Bắc mặc váy, phụ nữ miền Nam phải mặc quần có đáy (hai ống) giống đàn ông. Võ Vương đã gây ra một cuộc khủng hoảng về trang phục. Phụ nữ đã phản đối kịch liệt.
          
           Về sau Võ Vương không ưng ý với trang phục đó, Ngài giao cho triều thần nghiên cứu, tham khảo chiếc áo dài của người Chàm (giống hệt áo dài hiện nay nhưng không xẻ nách), và áo dài của phụ nữ Thượng Hải (xẻ đến đầu gối) để chế ra áo dài của phụ nữ miền Nam”.

            Do đó, những chiếc áo dài đầu tiên của người Việt giống như áo dài người Chàm và có xẻ tà. Vậy là chiếc áo dài Việt Nam ngày nay có đủ hai yếu tố văn hóa phương Bắc và phương Nam.
Chiếc áo dài của người Chàm

           Nói đến người Chàm là phải nói đến Chế Lan Viên [2], một hiện tượng thơ văn Việt Nam nhưng lại đậm nét Chàm với tập thơ Điêu tàn được xuất bản năm 1937. Bút hiệu Chế Lan Viên khiến người đọc thơ của ông liên tưởng đến Chế Bồng Nga, tên hiệu của vị vua thứ 3 thuộc vương triều thứ 12 (tức là vị vua đời thứ 39) của Chiêm Thành.

           Trong thời kỳ Chế Bồng Nga cầm quyền, đất nước Chiêm Thành rất hùng mạnh, từng đem quân nhiều lần xâm phạm Đại Việt của nhà Trần. Ông hy sinh năm 1390 khi tấn công Thăng Long lần thứ 4.

           Điểm đặc biệt ở chỗ Chế Lan Viên lại là một nhà thơ mang dòng họ Việt, Phan Ngọc Hoan, nhưng đã mượn hình ảnh của người Chàm để thể hiện một trường phái thơ mà ông gọi là Trường Thơ Loạn trong tập thơ Điêu tàn. Đặc biệt hơn nữa, khi xuất bản Điêu tàn, Chế Lan Viên chỉ mới 17 tuổi!

               “Ta hãy nghe, trong lòng bao đỉnh Tháp
               Tiếng thở than, lời oán trách cơ trời
               Ta hãy nghe, trong gạch Chàm rơi lác đác
               Tiếng máu Chàm ri rỉ chảy không thôi”
               (Chế Lan Viên – “Bóng tối” trong tập thơ Điêu tàn)

               “Bên cửa Tháp ngóng trông người Chiêm Nữ
               Ta vẩn vơ nhìn không khí bâng khuâng”

               (Chế Lan Viên, “Đợi người Chiêm nữ” trong tập thơ Điêu tàn)

               “Chiêm nương ơi, cười lên đi, em hỡi!
               Cho lòng anh quên một phút buồn lo!
               Nhìn chi em chân trời xa vòi vọi
               Nhớ chi em sầu hận nước Chàm ta?”

               (Chế Lan Viên, “Đêm tàn” trong tập thơ Điêu tàn)

               “Nước non Chàm chẳng bao giờ tiêu diệt
               Tháng ngày qua vẫn sống với đêm mờ”

               (Chế Lan Viên – “Bóng tối” trong tập thơ Điêu tàn)

               “Tháng ngày qua, gạch Chàm đua nhau rụng
               Tháp Chàm đua nhau đổ dưới trăng mờ!
              
               Tạo hóa hỡi! Hãy trả tôi về Chiêm quốc!
               Hãy đem tôi xa lánh cõi trần gian!”
               (Chế Lan Viên, “Những sợi tơ lòng” trong tập thơ Điêu tàn)

Chế Lan Viên (1920 – 1989)

           Thành Đồ Bàn là tên kinh đô của Chàm trong thời kỳ có quốc hiệu là Chiêm Thành. Thành Đồ Bàn, hay Vijaya, còn gọi là Thành cổ Chà Bàn hoặc thành Hoàng Đế, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, Thị xã An Nhơn và cách thành phố Qui Nhơn (tỉnh Bình Định) khoảng hơn 20km.

           Trong lãnh vực âm nhạc, nhạc sĩ Xuân Tiên đã để lại cho hậu thế một tác phẩm bất hủ mang tên Hận Đồ Bàn với những lời thống thiết của người dân Chàm:

               “Rừng hoang vu, vùi lấp chôn bao uất căm hận thù
               Ngàn gió ru, muôn tiếng vang trong tối tăm mịt mù
               Vạc kêu sương, buồn nhắc đây bao lúc xưa quật cường
               Đèn đóm vương, như bóng ai trong lúc đêm trường về…

           Trong kho tàng âm nhạc Việt Nam trước năm 1975 có rất ít những bản nhạc mang tính cách lịch sử của một dân tộc “vong quốc” với những ca từ diễn tả tỉ mỷ đến từng chi tiết như một bài thơ:

               “Rừng rậm cô tình, đèo cao thác sâu, đồi hoang suối reo hoang vắng cheo leo
               Ngàn muôn tiếng âm, tháng năm buồn ngân, âm thầm hòa bài hận vong quốc ca
               Người xưa đâu, mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu
               Lầu tháp đâu, nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu…”

               “Về kinh đô, ngàn thớt voi uy hiếp quân giặc thù
               Triệu sóng xô, muôn lớp quân Chiêm tiến như tràn bờ
               Tiệc liên hoan, nhạc tấu vang trên xứ thiêng Đồ Bàn
               Dạ yến ban, cung nữ dâng lên khúc ca về Chàm

               “Một thời oanh liệt người dân nước Chiêm lừng ghi chiến công vang khắp non sông
               Mộng kia dẫu tan cuốn theo thời gian nhưng hồn ngàn đời còn theo nước non
               Người xưa đâu, mộ đắp cao nay đã sâu thành hào
               Lầu các đâu, nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu…”


Kiến trúc và điêu khắc ở thân tháp Po Klaung Garai, thế kỷ 13

           Không một ca sĩ nào hát Hận Đồ Bàn "có hồn" bằng Chế Linh [3]. Lý do cũng dễ hiểu vì anh mang tâm sự của một người Chàm với tên thật là Chà Len (Jamlen) và tên Việt là Lưu Văn Liên. Anh ra đời năm 1942 tại làng Hamu Tanran thuộc Phan Rang, nay là tỉnh Ninh Thuận.

           Người ta biết nhiều đến Chế Linh qua dòng nhạc ca tụng những người lính trong quân lực VNCH mặc dù anh chẳng đi lính ngày nào vì thuộc dạng “miễn dịch” dành cho “dân tộc thiểu số”. Về dòng nhạc này, có người khó tính lại bảo Chế Linh thuộc thành phần… “lính chê”.

           Người thương thì nói rõ ràng là anh bị “lính chê” nên mới được “miễn dịch”, một số khác, trong đó có cả những người đang mặc áo lính, lại không ưa những ca từ anh ca tụng họ. Họ bảo những bài hát đó được trình bày theo phong cách… “sến”.

           Nhưng với Hận Đồ Bàn, mọi người đều có một nhận xét chung: bài hát đã đưa tên tuổi Chế Linh thâm nhập vào làng ca nhạc Việt Nam với tâm trạng của một người Chàm “vong quốc”. Chỉ tiếc một điều, những bài hát có tầm vóc như Hận Đồ Bàn rất hiếm trong nền ca nhạc nên Chế Linh phải bước sang một dòng nhạc gây nhiều tranh cãi [4].

           Người ca sĩ gốc Chàm, được gọi là “tài hoa” cũng có một đời tư thật… “hào hoa”: Chế Linh nổi tiếng là người có nhiều vợ con, tính cho đến năm 2007, anh đã có 4 vợ và 14 đứa con. Ta khám phá được nhiều điều về Chế Linh qua bài viết của Jaya Bahasa, “Mừng sinh nhật lần thứ 57 của chị Nguyễn Thị Thúy Hằng” trên trang web Inrasara [5].

           Vào giữa thập niên 1970 Chế Linh kết hôn với cô Nguyễn Thị Thúy Hằng (sinh ngày 1/12/1953, mất ngày 26/4/1974). Cuộc hôn nhân giữa một ca sĩ người gốc Chàm với một cô gái người Việt đã khiến giới báo chí Sài Gòn tốn khá nhiều giấy mực.

           Jaya Bahasa viết: “Như một định mệnh hai dân tộc, hạnh phúc này nhanh chóng đổ vỡ bởi những mù khơi mà không ai có thể biết được. Vì muốn minh chứng cho tình yêu của mình được sống mãi, chị Thuý Hằng quyết định quyên sinh bằng một liều thuốc ngủ mà luyến tiếc để lại hai đứa con trai thơ dại.
          
           Cái chết của Thuý Hằng đến quá đột ngột và bất ngờ, một lần nữa, cánh báo chí và giới nghệ sĩ Sài Gòn thêm bàn tán rôm rả. Nhưng không người nào biết được căn nguyên. Bởi chị không một lời nào trăn trối ngoài ba lá thư để lại cho gia đình.

            Lá thư thứ nhất viết cho người mẹ mà chị gọi bằng Mợ, xin tha thứ vì những lỗi lầm này và mong mợ hãy yêu thương đứa con của chị để được thấy chị qua hình ảnh đứa con. Lá thư thứ hai viết riêng cho hai đứa con yêu quý mà chị đặt tên là Sơn và Ca, một loài chim có giọng hót tuyệt vời. Lá thư thứ ba viết riêng cho ca sĩ Chế Linh, vài dòng ngắn ngủi với sự muộn màng và chỉ xin Chế Linh cho một nắm đất đắp lên mộ”.


Thúy Hằng và Chế Linh
(Ảnh trên trang web Inrasara) 

            Chuyện tình Chế Linh – Thúy Hằng với đoạn kết đầy nước mắt khiến người ta liên tưởng đến một chuyện tình vương giả trong lịch sử Việt-Chàm. Huyền Trân là một công chúa đời nhà Trần, con gái của vua Trần Nhân Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô và Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía bắc Quảng Trị ngày nay).

           Một năm sau đó, khi hoàng hậu người Đại Việt vừa sinh xong hoàng tử Chế Đa Đa, thì tháng 5/1307, quốc vương Chế Mân băng hà. Theo tục lệ nước Chiêm, khi vua chết hoàng hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn tang. Vua Trần Anh Tông biết tin, sai Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang, tìm cách cứu Huyền Trân.

           Trần Khắc Chung bày kế thành công, cứu được Huyền Trân đưa xuống thuyền về Đại Việt bằng đường biển. Cuộc hải hành này kéo dài tới một năm (?) và theo “Đại Việt Sử ký Toàn thư” thì Trần Khắc Chung đã tư thông với công chúa.

           Theo di mệnh của Thượng hoàng Nhân Tông, công chúa đầu gia Phật giáo ở núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh) vào năm 1309, dưới sự ấn chứng của quốc sư Bảo Phát. Công chúa thọ Bồ tát giới và được ban pháp danh Hương Tràng.

            Trong dân gian, có lẽ vì thời đó người Việt coi người Chàm là dân tộc thấp kém, nên đã có câu:

           Tiếc thay cây quế giữa rừng
            Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo


Đền thờ Huyền Trân Công chúa          

            Nói đến lãnh vực âm nhạc của người Chàm như trường hợp của ca sĩ Chế Linh tôi lại nhớ đến nhạc sĩ Từ Công Phụng, vốn là bạn học năm Đệ Nhất tại trường Trần Hưng Đạo Đà Lạt. Chúng tôi chỉ quen nhau trong một niên học nhưng có nhiều chuyện để nhớ khi tuổi tác ngày một cao.

           Từ Công Phụng ngày đó là một học sinh từ Ninh Thuận lên Đà Lạt học năm cuối trung học. Có lẽ anh là gốc người Chàm nên hình như luôn có một khoảng cách vô hình với đám học sinh chúng tôi. Anh “góp tiếng” tham gia ban nhạc nhà trường bằng giọng hát và chúng tôi rất ngạc nhiên khi nghe một giọng trầm, buồn và còn đặc biệt hơn nữa chỉ hát những bài “lạ”…

            Đó là hai bài “Bây giờ tháng mấy” và “Mùa thu mây ngàn” do chính anh sáng tác. Thật không ngờ, khi mới 16 tuổi anh đã tự học về âm nhạc qua một cuốn sách của Robert de Kers, viết bằng tiếng Pháp, với tựa đề “Harmonie et Orchestration”. Đến năm 17 tuổi anh đã có nhạc phẩm đầu tay “Bây giờ tháng mấy”…

            Hồi đó đang có cuộc thi tài giữa “trường Ta” là Trần Hưng Đạo và “trường Tây” của các sư huynh dòng La San là trường College d’Adran trên sân khấu thành phố Đà Lạt. Vì là trường Tây nên Adran chơi nhạc Beatles, đàn cũng là kiểu Beatles còn Trần Hưng Đạo chúng tôi khiêm tốn hơn, chơi đàn Fender theo các bản hòa tấu của The Shadows.

            Có thêm Từ Công Phụng “chuyên trị” nhạc Việt thể loại “tình cảm” trở thành… “hoa thơm cỏ lạ” trong chương trình văn nghệ. Thoạt đầu Từ Công Phụng “khớp” không dám lên sân khấu nhưng anh em trong ban nhạc cứ khen những bài “tự biên, tự diễn” của Phụng và bảo đảm là sẽ nổi bật trong đêm văn nghệ.

           Từ Công Phụng bỗng trở thành một hiện tượng tại Đà Lạt. Khán giả hoan nghênh nhiệt liệt đến độ Đài phát thanh Đà Lạt mời anh ghi âm để phổ biến qua làn sóng điện, tên tuổi của Từ Công Phụng được người Đà Lạt biết đến cùng với Lê Uyên Phương trong ban nhạc Ngàn Thông trên Đài phát thanh.

            Cuối năm Đệ Nhất ban nhạc của chúng tôi tản mát mỗi người một phương. Họ Từ về Sài Gòn và ngay sau đó nổi lên như một nhạc sĩ ăn khách cùng thời với Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Trịnh Công Sơn và Lê Uyên Phương.
           Sau 30/4/1975, các sáng tác của Từ Công Phụng bị cấm lưu hành tại Việt Nam và mãi cho đến năm 2003 mới được… “cởi trói”. Anh rời Việt Nam năm 1980 và định cư tại Portland, Oregon. Năm 1998, anh trở về thăm quê hương Ninh Thuận và năm 2008, anh trở lại với chương trình "45 năm tình ca Từ Công Phụng" tại một phòng trà có tiếng ở Sài Gòn.

            Nhạc sĩ kiêm ca sĩ Từ Công Phụng đã 2 lần vượt qua căn bệnh ung thư gan và ung thư túi mật nhưng vẫn mong đủ sức khỏe để sáng tác trong những ngày cuối đời. Với tình bạn học của buổi thiếu thời tôi chỉ mong anh sẽ sống mãi với chúng ta, chuyện sáng tác chỉ là vấn đề phụ vì những tác phẩm đã ra đời của anh đã là chứng nhân cho một nhạc sĩ tài hoa người Chàm.


Từ Công Phụng

           Hồi còn đi học tại Ban Mê Thuột, tôi có một vị giáo sư người gốc Chàm. Thầy Nguyễn Văn Tỷ, quê quán tại Ninh Chữ, một bãi biển thuộc thôn Bình Sơn, thị trấn Khánh Hải, tỉnh Ninh Thuận.

           Tôi cùng thầy Bùi Dương Chi đã dẫn đoàn sinh viên Mỹ đến bãi biển Ninh Chữ được coi là một trong những bãi biển đẹp nhất Việt Nam. Kết hợp với địa danh Bình Sơn, Ninh Chữ đã trở thành cụm du lịch Bình Sơn - Ninh Chữ đem lại diện mạo, thương hiệu và thu nhập cho tỉnh Ninh Thuận.

           Thầy Nguyễn Văn Tỷ đã về hưu và sinh sống tại Ninh Chữ. Ông trở thành một “nhân sĩ” trong làng và vẫn tiếp tục nghiên cứu văn hóa Chàm để truyền bá lại cho lớp trẻ người Chàm. Ông cũng là một cộng tác viên kỳ cựu của Tuyển tập Tagalau như đã nói ở trên.

           Tháng 10/2009 ông đến California để tham dự lễ Katê của cộng đồng người Việt gốc Chàm tại đây. Ông đã được mời phát biểu cảm tưởng tại buổi lễ. Theo ông, dân tộc Chàm muốn sống với nhau tốt, muốn tồn tại tốt cần thể hiện 3 yếu tố: Đoàn kết, Bảo tồn và Phát triển.

            Đối với người Chàm, đoàn kết được thì sẽ được tất cả, và không đoàn kết thì sẽ mất tất cả. Điều này mang ý nghĩa sau khi bị “vong quốc” sẽ lại phải “vong thân”.

           Người Chàm cần bảo tồn ngôn ngữ và chữ viết của mình, vì “tiếng Chàm còn thì người Chàm còn; tiếng Chàm mất thì người Chàm mất”.

            Nếu tồn tại được mà không phát triển thì chỉ “tồn tại như một dân tộc bần cùng”, “vùi dập trong cuộc sống lạc hậu, tối tăm”.

           Có lẽ đó cũng chính là lời kết của bài viết này về… “Người Chàm trong mắt tôi”.


Thánh địa Mỹ Sơn

***
Chú thích:

[1] Tagalau tiếng Chàm là cây bằng lăng hoa tím, mọc nhiều ở miền núi Ninh Thuận và Bình Thuận. Tuyển tập mang tên Tagalau vì nó tượng trưng cho tính dân dã, sức chịu đựng, sự khiêm tốn: nỗ lực nở hoa dù phải mọc trên mảnh đất nghèo cằn.
Tagalau là Tuyển tập chứ không phải là Tạp chí nên không ra định kỳ, mà chỉ được xuất bản khi tập hợp đủ bài vở. Số đầu tiên của Tuyển tập Tagalau ra mắt vào lễ Katê của người Chàm năm 2000.

[2] Chế Lan Viên (1920 – 1989), tên thật là Phan Ngọc Hoan, ra đời tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung rồi đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ.
Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam.
Trước năm 1945, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa "trường thơ loạn": Kinh dị, thần bí, bế tắc của thời Điêu tàn với xương, máu, sọ người, với những cảnh đổ nát của tháp Chàm. Những tháp Chàm "điêu tàn" là một nguồn cảm hứng lớn đáng chú ý của Chế Lan Viên. Qua những phế tích đổ nát và không kém phần kinh dị trong thơ Chế Lan Viên, ta thấy ẩn hiện hình bóng của một vương quốc hùng mạnh thời vàng son, cùng với nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ.
Phong cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng - triết lý, "chất suy tưởng triết lí mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa". Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng.

[3] Hận Đồ Bàn do ca sĩ Chế Linh trình bày:

[4] Tham khảo về Chế Linh tại:

[5] Tham khảo trang web của Inrasara về chuyện Chế Linh và Nguyễn Thị Thúy Hằng: http://inrasara.com/2010/11/26/






Thứ Năm, 26 tháng 6, 2014

Tàn dư "văn hóa nô dịch, đồi trụy và phản động"!

      Sau bao "chiến dịch bài trừ văn hóa nô dịch, đồi trụy và phản động", tôi đã hưởng ứng và tham gia thực hiện một cách quyết liệt và triệt để bằng cách tập trung tất cả các loại sách vở, là tàn dư của thời Mỹ-Ngụy, từ tiểu thuyết, biên khảo cho đến sách giáo khoa để đốt cho bằng hết.
     Những tưởng như vậy đã quét sạch rồi. Nhưng, quả đúng như ông bà ta đã dạy: "Bói ra ma, quét nhà ra rác", tuần rồi, dọn dẹp lại đống sách vở cũ thì thấy vẫn còn sót lại mấy cuốn. Chúng nó đây nè:
     Mấy chục năm về trước, Phan Trường Nghị, thằng bạn học từ thời còn "để chỏm",  kể chuyện hồi mới được giải phóng, có ông cán bộ văn hóa ở Miền Bắc XHCN về, nghe nó có mấy tập thơ thời tiền chiến của các thi sĩ đang sống, làm việc và công tác ngoài đó, nhưng ở ngoãi không cho xuất bản nên đến gặp nó để mượn đọc. Được nó cho mượn, ổng mừng lắm. Tôi không tin là thiệt mà cho đó là một bài kiểm tra về sự cải tạo nhận thức tư tưởng và giác ngộ của thanh niên vùng mới giải phóng, nên tôi đã khuyên nó nên biếu hẳn cho ổng hoặc lấy về mà đốt đi.

     Bởi vậy, mặc dầu cũng thấy tiên tiếc mấy cái "tàn dư" trên nhưng tôi vẫn quyết tâm đem đi đốt bằng hết. Có điều trước khi "hỏa táng" có chụp lại mấy tấm hình để gọi là làm kỷ niệm và chứng tích về sự giác ngộ triệt để của mình!

      P/s: Hình ảnh về chiến dịch "bài trừ văn hóa nô dịch, đồi trụy và phản động" ở Sài Gòn sau ngày Miền Nam được giải phóng:



Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2011

Đại gia Bình Định: Huỳnh Uy Dũng với "biển chữ nghĩa"

Văn hóa… nhà giàu!
Coi thêm bài có liên quan:
- Đại gia Bình Định: Huỳnh Uy Dũng hay Dũng "Lò vôi "  
     (Coi chi tiết: 1,   2, 2b3, 3b4,   5, 5b6,   7,   8, và  9)
- Đại gia Bình Định: Huỳnh Uy Dũng với "Khu Du lịch Đại Nam "
- Đại gia Bình Định: Huỳnh Uy Dũng "Mộ Đạo Phật"
      Đại gia Bình Định: HUỲNH UY DŨNG,  vốn trước đây có tên là HUỲNH PHI DŨNG, một người mà "Trong làm ăn kinh tế, luôn là người đi tắt và đón đầu",... "giản dị như mọi nhân viên đang làm việc tại khu du lịch Đại Nam",... “Mỗi ngày, ăn chưa tới… 50.000 đồng, một tháng ăn chay 4 ngày", ... "là tác giả của hàng chục tác phẩm thơ với hàng nghìn câu thơ mang đậm chất giáo lý Phật học, chạm đến chất sử thi hùng tráng của dân tộc 4000 năm dựng nước và giữ nước" (click vô đây, hoặc đây, để coi đầy đủ).
     Nhưng cũng có người cho rằng đó là "văn hóa ... nhà giàu!", với nội dung như sau:
Ngộ độc... chữ nghĩa
      Đến Khu du lịch Đại Nam (Bình Dương) khách du lịch, sau phút hoan hỉ, sẽ thấy ngỡ ngàng, thấy ngợp trước một "biển thơ", "biển chữ nghĩa", đâu đâu cũng thơ, văn, câu đối. Nếu không có thời gian để đọc, để hiểu kỹ thì có thể mua về "nghiên cứu" vì thơ, văn... ở đây đã được in thành sách, chép ra đĩa. Nhưng đọc kỹ, người ta mới tá hỏa vì nhiều câu không chỉ sai cơ bản về gieo vần, thanh điệu, rỗng tuếch về nội dung mà còn hỏng về mặt kiến thức một cách nghiêm trọng.
      Vậy mà tác giả của nó lại tỏ ra rất uyên bác, làm thơ nói về tất cả các vấn đề tự cổ chí kim... rồi đem trưng bày, quảng bá khắp nơi.
      Bước vào cổng của Đại Nam đã thấy thơ, câu đối khắc đầy trên các cổng chào. Nhiều nhất là ở khu thờ tự. Hễ mảng tường nào còn trống là có thơ, câu đối. Hầu hết đều ghi tên 2 tác giả là Huỳnh Ngu Công và Huỳnh Uy Dũng.
      Được biết, Huỳnh Uy Dũng là tên được đổi lại sau của ông chủ khu du lịch này (trước đây là Huỳnh Phi Dũng), còn Huỳnh Ngu Công là ai nhiều người vẫn đang đặt câu hỏi. Có phải là một người họ Huỳnh lấy "bút danh" theo tích "Ngu Công di sơn" ở Trung Quốc?
      Nhưng điều quan trọng là chữ nghĩa, thơ văn của ông ta như thế nào mà lại được chạm trổ, sơn son thếp vàng, khắc lên các bức tường của một "công trình văn hóa" cho thiên hạ chiêm ngưỡng?
      Đọc những bài thơ này thì mọi người mới hỡi ơi thất vọng vì "chỉ tổ hại não".

Thứ Sáu, 1 tháng 4, 2011

Văn hóa xin lỗi

 (Tamnhin.net)-Có một nghịch lý là hai chữ “xin lỗi” ở những người bình dân có văn hóa càng nhẹ nhàng, “thanh thoát” bao nhiêu thì với những vị trí “nặng ký”, để có một lời xin lỗi khó khăn vô cùng. Do đó, hiệu ứng của lời xin lỗi ấy cũng giảm thiểu, không thuyết phục. (coi chi tiết ở đây)

Thứ Sáu, 14 tháng 1, 2011

Văn hóa đang "loạn chuẩn"?

Những ngày gần đây chúng ta đã phải chứng kiến, đã phải nghe rất nhiều những việc làm, những lời nói rất không văn hóa hoặc thiếu văn hóa hoặc “loạn chuẩn” về văn hóa.
(Tác giả Nguyên Như Phong, đăng trên CAND Online)
(Click zô đây để coi nguyên bổn)

Thứ Tư, 24 tháng 11, 2010

Những câu chuyện phản văn hóa ở đất nước "4K năm văn hiến"!

 1./ Nhà văn hóa và những câu chuyện phản văn hóa! 
 2./ Hình ảnh một ông quan văn hóa!

1./ Nhà văn hóa và những câu chuyện phản văn hóa!
(Nguồn: Báo Đại Đoàn kết)

Năm ngoái, khi những tấm biển “Nhà văn hóa” được đục gắn tự tiện tràn lan trước tường cổng các tư gia ngay giữa Thủ đô, dân tình và chính các tư gia được gắn bảng “văn hóa” này đã phản ứng quyết liệt. Họ cho rằng cái tấm biển “văn hóa” đấy đã làm “chướng mắt” chính cái không gian văn hóa của người dân. Nó hình thức và phản cảm đến mức ngay sau đó Bộ Văn hóa- Thể thao- Du lịch phải có ý kiến chấn chỉnh.

Chuyện không chỉ Hà Nội, phong trào gắn biển “gia đình văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa” kiểu lối hình thức như vậy tràn lan khắp nước. Nhiều khi, chính những tấm biển mang danh “văn hóa” lại  vô tình xô lệch khuôn diện kiến trúc đô thị.

Về các vùng quê, sự lệch pha văn hóa trong các phong trào văn hóa này càng hiển hiện rõ hơn. Tôi vừa ở quê ra, hôm qua nhìn thấy đứa em trong họ “giận cá chém thớt” đánh đập mắng chửi vợ con mà vừa thương vừa tức. Nhà nghèo, một lũ con nheo nhóc, tiền học, tiền đong gạo dồn dập. Vậy mà tộc họ cứ dăm bữa nửa tháng lại nhắc thúc nộp tiền xây nhà thờ tộc. Cả triệu bạc với nó đâu có ít. Thế rồi lại đến việc vận động quyên góp mỗi nhà nửa triệu bạc để xây nhà văn hóa. Khổ, suốt ngày cứ bị các ngài quản lý văn hóa đến đòi nhắc khoản “dân tự nguyện đóng góp”. Không chạy nổi tiền nộp.Ưc qua, hắn về ném thúng quăng nia chửi mắng vợ con.

Chả nhẽ cái hậu họa “văn hóa” lại đến nỗi như vậy sao?

Hôm rồi ngoài Nghệ An, Hà Tĩnh đang lụt. Dân tình cả nước tập trung cứu trợ giúp sức cho dân vùng lũ. Thế mà ngay trong khi nước chưa rút,  tiền cứu trợ mới về đến xã- thôn  đã bị chặn ách lại để trừ bớt tiền định mức xây dựng cổng làng văn hóa với nhà văn hóa. Sáng nay đọc báo, lại thấy trong Quảng Ngãi người ta cũng đang “đe” dân ra đóng tiền xây nhà văn hóa, mỗi hộ phải “tự nguyện” ít nhất là nửa triệu bạc.

Chưa gì đã thấy “vấn đề” văn hóa ngay từ phương thức vận động quyên góp tiền của người dân để xây nhà văn hóa. Những “viên gạch” được nung đúc bằng phương cách nói trên có xây dựng nổi những mô hình nhà văn hóa? Chắc gì cái “nhà văn hóa” ấy được dựng lên sẽ nâng tầm văn hóa được cho những gia đình khốn khó kia, giúp họ có... văn hóa hơn, được sống được hưởng một môi trường văn hóa hơn?

Về các vùng quê, thử vào khám phá các “nhà văn hóa” thôn bản xem đang phục vụ và “khai hóa văn hóa” cho dân như thế nào, được bao nhiêu phần trăm ngôi nhà văn hóa thật sự có văn hóa? Thực tế, không ít nhà văn hóa đã được sử dụng không đúng chức năng có khi còn là nơi vài top choai choai ngày đêm chui vào xem phim sex.

Không thể xây dựng một ngôi nhà văn hóa bằng những viên gạch và phương thức phản văn hóa.
Đoạn clip công an bắt mại dâm với một phương cách rất phản cảm và thiếu văn hóa không được dư luận đồng tình mặc dù một số vị quan chức trong ngành đã lớn tiếng biện minh rằng đó là “biện pháp nghiệp vụ được phép sử dụng”. Nếu qui định của ngành công an cho phép biện pháp nghiệp vụ như thế thì cũng cần có sự xem xét lại.

Chống hành vi phi văn hóa rất cần có những phương cách văn hóa .
TDN
 
 
Sáng 23/11/2010 Đại hội Hội Nhà Văn Hà Nội chính thức khai mạc. Gần 300 hội viên mà hầu hết là các cụ văn nhân, đa phần tuổi ngoại lục tuần, chỉnh tề, trang trọng. Lần này xem ra đại hội có rất ít quan khách tới dự, chẳng biết tại sao? Thực ra thì đại hội thành công hay không dĩ nhiên là không phụ thuộc vào các vị khách mời. Có chăng chỉ là để cho đại hội … thêm phần long trọng! Tuy nhiên các quan khách sẽ đóng góp gì cho đại hội lại là chuyện khác. Có lẽ vì quá bận nhiều việc quốc gia đại sự nên không có một vị “đầu lỉnh” nào của thành phố sắp xếp được thì giờ tới dự. Hay phải chăng văn chương không phải là cái gì hệ trọng hay thiết thực đối với thành phố nên đến cũng được mà không đến cũng chẳng sao? Suốt 5 năm mà một Hội có khoảng gần 600 hội viên chỉ được thành phố “ưu ái” cấp cho khoản kinh phí ngót nghét 800 triệu đồng để tổ chức tất tần tật mọi hoạt động. Vậy thì nói khuyến khích văn học nghệ thuật có lẽ chỉ là đãi bôi mà thôi.

Người viết bài này chỉ xin kể một chuyện mắt thấy mà chắc cả đại hội ai cũng thấy. Đó là chuyện về một vị khách mời thuộc diện quan trọng nhất. Trong đại hội lần thứ 11 của Hội Nhà Văn Hà Nội lần này thành phố cũng chỉ cử một vị phó ban của một ban chuyên về quản lý VHNT đến dự và lên diễn đàn huấn thị cho các nhà văn. Thực ra thì các nhà văn cũng đâu quan tâm đến chức tước ông này bà nọ. Cái chính là người này thực sự đóng góp được gì với tư cách là đại diện cho lãnh đạo thành phố? Ấy vậy mà vị quan chức này khi xuất hiện đã thể hiện có phần … phản cảm. Tôi không muốn nói đến các lời giáo huấn của vị quan này mà chỉ nói đến một chi tiết rất nhỏ. (Xin đừng coi thường các chi tiết tưởng là nhỏ này). Khi bước lên bục diễn thuyết vị quan chức này nói rất hùng hồn, tay phải luôn chém gió nhưng tay trái thì hầu như luôn … đút trong túi quần!

Kể từ khi chậm rãi bước lên diễn đàn, cái tay ông này đã nằm trong túi. Mà trời đâu có rét! Tôi cứ tưởng ông vô ý, chỉ nhỡ theo thói quen. Nhưng khi đứng sau bục diễn giả, khi đã nói năng hùng hồn, khi tay phải luôn vung vẫy thì tay trái của ông vẫn nằm yên trong túi. Hay là tay ông bị làm sao? Không phải, vì thỉnh thoảng ông cũng rút tay ra nhưng rồi lại đút ngay tay vào. À, thì ra đó là cách để thể hiện “khí phách” của một nhân vật quan trọng! Nghe đâu ông từng là quan đầu lĩnh của một huyện ngoại thành. Có thể thói quen của một vị quan “phụ mẫu chi dân” đã ăn sâu nên khó mà sửa đổi!

Người viết bài này không phải là kẻ chuyên bới lông tìm vết. Tôi muốn kể lại việc này chỉ vì một ý nghĩ là một ông quan chuyên trách về văn hóa mà lại … thiếu văn hóa vậy thì liệu văn hóa Thủ đô có còn xứng với mãnh đất nghìn năm văn hiến?
Dương Ca
Tiến sĩ Hán - Nôm Nguyễn Xuân Diện (Blog Nguyễn Xuân Diện):
Đọc bài viết trên, tôi không biết cái ông quan văn nghệ khệnh khạng kia là ai. Nhưng đến khi đọc đến bài "Bên trong" Đại hội XI Hội Nhà văn Hà Nội có chuyện lạ gì?" cũng trên trang của bác Trần Nhương, tôi mới biết đích thị ông ta là: Nguyễn Khả Hùng, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Thành uỷ Hà Nội. Tác phong ứng xử kiểu này, tôi thấy đây là trường hợp thứ hai. Trường hợp thứ nhất là Ông Ngô Hoà - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế, trong cuộc họp báo về Festival mới rồi - ảnh dưới .

Nếu đúng như phản ánh trong bài viết trên, tôi đề nghị Thành ủy Hà Nội, lần sau có các hội nghị nào liên quan đến văn nghệ sĩ trí thức, xin đừng cử Ông Nguyễn Khả Hùng đi nữa. Nếu cứ để ông ấy đi, sẽ mang tiếng cho Thành ủy là coi thường giới văn nghệ và trí thức.


Chủ Nhật, 21 tháng 11, 2010

DƯ ÂM NGÀY 20-11

    Người xưa "Tôn sư trọng đạo"

     Ngày nay, chúng ta có "Ngày nhà giáo Việt Nam",  như là ngày lễ hội  và là ngày "tôn sư trọng đạo", nhằm mục đích tôn vinh những người hoạt động trong ngành giáo dục, để các học sinh, đặc biệt là cha mẹ học sinh, đến tặng hoa và biếu quà cho các thầy, cô giáo.
    
     Thời chúng tôi còn cắp sách đến trường, không có ngày này mà chỉ có "mùng một tết cha, mùng hai tết mẹ, mùng ba tết thầy". Người khác thì sao không biết chứ riêng tôi thì chưa bao giờ tôi tặng hoa hay tặng quà gì cho thầy, cô giáo cả, ngoài việc chúc tết thầy. Tôi chưa bao giờ được thầy, cô giáo dạy "phụ đạo" hoặc cho "học thêm", "học kèm", nhưng vẫn nhận được kết quả "học lực: giỏi", "hạnh kiểm: tốt". Trong lòng tôi, hình ảnh người thầy, cô giáo lúc nào cũng đáng kính và không bao giờ, cho dù là một thoáng chốc, có ý nghĩ tiêu cực về thầy, cô giáo của mình. Chúng tôi vẫn khắc sâu tinh thần "tôn sư trọng đạo"!
     
      Xa hơn nữa về trước, tuy dưới chế độ phong kiến, thực dân, nhưng tinh thần "tôn sư trọng đạo" đó cũng được thượng tôn và vẫn còn ghi dấu mà tôi được thấy và biết rất cụ thể ở chính trong gia đình mình. Đặc biệt là học sinh còn đến tặng quà cho thầy sau khi thầy đã mất ngót 30 năm! Tôi xin được ghi lại ở đây:
      
       1./ Trường hợp thứ nhất: Ông cố (tằng tổ) của tôi là một thầy đồ dạy chữ Hớn, có thời gian dạy học khoảng 4, 5 năm, vì ông mất sớm (mới gần 40 tuổi, sau 3 keo thi rớt tú tài Hán học) nên thời gian dạy học không nhiều. Tuy vậy, hơn 30 năm sau khi ông mất, một số môn sinh (khi đã đứng tuổi, có danh phận và sự nghiệp) còn đến tặng một món quà, đó là 1 câu đối khảm xà cừ. Ấn tượng hơn nữa, một vài người con của học trò ông còn đến dự và cúng lạy người thầy của cha mình, nhân ngày giỗ ông hằng năm mà  ngày còn bé tôi đã từng chứng kiến.
     
       2./ Trường hợp thứ hai: Ông cố của tôi có một người anh trai cũng là một thầy đồ dạy chữ Hớn, nhưng ông có thời gian dạy học lâu hơn (khoảng 15 năm). Sau khi ông mất các học trò của ông đã tặng ông  (chính xác là tặng cho con cháu ông) một món quà, còn đặc biệt hơn, là mấy khoảnh ruộng (diện tích khoảng 5.000 m2) để con cháu lấy hoa lợi mà hương khói và cúng giỗ cho thầy. Những khoảnh ruộng này tục gọi là "ruộng đồng môn".

     Tiếc thay, sau ngày 30/4/1975, Nhà nước ta đã đưa những khoảnh "ruộng đồng môn" này vào Hợp tác xã nông nghiệp. Chắc chắn rồi mai đây, chỉ cần dăm ba năm nữa thôi, khi  lối mươi người còn lại ở lứa tuổi U80 ở xóm Trung Hòa Đông, làng Trinh Tường quê tôi đã ra người thiên cổ thì không còn ai biết được những khoảnh "ruộng đồng môn" này cũng như tinh thần "Tôn Sư Trọng Đạo" đã từng được trân trọng và thượng tôn cụ thể và sâu sắc như thế nào!

 Hình ảnh và nội dung của "món quà"
của môn sinh ông cố tôi tặng thầy sau khi ông mất trên 30 năm.

Đứa cháu "huyền tôn" trước bàn thờ, cạnh câu đối
của các môn sinh "tặng" thầy sau khi thầy mất trên 30 năm.


 Hình ảnh và nội dung câu đối.
Câu đối này được viết theo lối "thảo" nếu viết "chân":
山 斗 髙 懸 顒 懿 笵
箕 裘 永 裕 慰 潜 靈
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện (Viện Hán Nôm) đã phiên âm và dịch nghĩa như sau:
"Gửi bác Bửu Châu:
Đôi câu đối trong ảnh mà Bác nhờ đọc giùm, xin đọc như sau:
SƠN ĐẨU CAO HUYỀN NGUNG Ý PHẠM
CƠ CẦU VĨNH DỤ ỦY TIỀM LINH

Nghĩa:
Như Thái Sơn, Bắc Đẩu treo gương ngưỡng vọng khuôn phép
Ấy nghiệp nhà tốt đẹp truyền mãi an ủi linh hồn tiền nhân.

Sơn = Thái Sơn;  Đẩu = Bắc Đẩu (tên sao);  Cơ, cầu: Cái nong (nia), cái áo cầu (áo lông cừu). Kinh Lễ có câu: Cung gia chi tử tất học vi cơ. Dã gia chi tử tất học vi cầu = con nhà thợ làm cung, tất phải học cách uốn của người làm nong nia. Con nhà thợ đúc, ắt phải học cách lắp ghép của người làm áo cừu (chắp các mảnh lông cừu lại để may áo). Ý câu này nói con cháu nối theo nghiệp nhà."

Các vị ở Viện Việt học (INSTITUTE OF VIETNAMESE STUDIES - USA) cũng đã nhận xét, phiên âm và dịch nghĩa như sau:
-Trần Ngọc Đông: "Chà câu đối được khảm trai, chữ viết đẹp quá! Câu đối viết thảo nên tôi cũng không biết hết, nhờ bác Khúc Thần dịch giúp với. Mấy chữ nhỏ góc trên là Bảo Đại thập lục niên Tân Tị đông (1941)."
-Khúc Thần:
Phiên âm: Sơn Đẩu cao huyền ngung ý phạm.
             Cơ cừu vĩnh dụ ủy tiềm linh.
Dịch nghĩa: Sơn Đẩu (Thái Sơn, Bắc Đẩu) treo cao, ngưỡng mộ đức độ cao cả tốt đẹp
                 Sự nghiệp (để lại) mãi dồi dào, an ủi vong hồn người quá cố

Tùy Bác sắp xếp lại cho đối xứng. Khôg biết có vị nào có ý kiến gì thêm cho được chỉnh hơn. Xin cám ơn trước. 
-Lãng khách: Bác Trần Ngọc Châu kính, Lãng cũng là người bập bẹ học chữ Hán, nhưng cũng thử góp chút ý kiến xem, biết đâu lại...may mắn đúng:
Tán tụng phong thái (như) núi lớn (Sơn đẩu hình như không nên đề cập tới Thái Sơn và Bắc Đẩu, mà chỉ xem như là 1 sự vật)
Yên ủi vong linh (xưa đã) nối được nghiệp lớn muôn đời 

UPDATE: Ngày 08/01/2013, ngày giỗ kỵ Ông, có sự tham dự của người con một học trò của Ông:
Bác Đỗ Bá Khải (bên trái), cựu giáo viên trường Trung cấp Tài chính Trung ương 3, con của một người học trò của Ông; cùng người cháu nội của Ông (bên phải) tại ngày giỗ Ông (27 tháng 11 năm Nhâm Thìn - 08/01/2013).

 P/s: - Các Web Blog có đăng bài này: ở đây và ở đây.
        - Bài có liên quan ở blog này: ở đây và ở đây.